Đánh giá tình hình hút thai và các biện pháp kế hoạch hoá gia đình tại bệnh viện phụ sản trung ương năm 2007

Đánh giá tình hình hút thai và các biện pháp kế hoạch hoá gia đình tại bệnh viện phụ sản trung ương năm 2007

Trong những năm qua, nạo hút thai ở nước ta được xếp vào loại cao trên thế giới. Theo Bộ Y tế, năm 1997 có 1.123.620 ca nạo hút thai, năm 1998 có 1.360.000, năm 1999 có khoảng 1,2 – 1,5 triệu ca và riêng ở thành phố Hà Nội có 59.424 ca nạo hút thai [1].
Việc tìm hiểu nhu cầu, nhận thức và hiểu biết về Kế Hoạch Hoá Gia Đình là hết sức cần thiết, nhằm giúp các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có một kế hoạch sinh đẻ theo nhu cầu, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mình. Bên cạnh đó những nghiên cứu sâu về việc cung cấp dịch vụ nạo hút thai và tư vấn biện pháp sinh đẻ có kế hoạch chưa thực sự gần gũi với ngưòi dân. Mục tiêu:
1.    Đánh giá đặc điểm đối tượng đến hút thai.
2.    Đánh giá về sử dụng các biện pháp  kế hoạch hoá gia đình trước và sau hút thai.
I.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành trên 105 phụ nữ đến hút thai trong 3 tháng đầu tại khoa kế hoạch hoá gia đình của Bệnh viên Phụ Sản Trung ương từ ngày 19/12/2006 đến ngày 16/1/ 2007.
2.    Tiêu chuẩn chọn lựa
–    Phụ nữ đồng ý tham gia nghiên cứu, phỏng vấn.
–    Tuổi thai < 12 tuần.
–    Tình trạng sức khoẻ bình thường, không  bị mắc các bệnh nhiễm trùng, nội khoa, ngoại khoa.
–    Có gai rau sau khi lọc rửa và soi tổ chức hút ra.
3.    Tiêu chuẩn loại trừ
Không có gai rau sau khi lọc rửa và soi tổ chức hút ra. Bỏ theo dõi.
4.    Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tiến cứu với can thiệp tư vấn về các biện pháp kế hoạch hoá gia đình sau hút thai.
II.    KẾT QUẢ
1.    Đặc điểm đối tượng hút thai
–    Nhóm tuổi của phụ nữ đến hút thai: < 20 tuổi chiếm 1,9%; 21 – 25: 25,7%; 26 – 30:  38,1%; 31 – 35: 15,2%; 36 – 40: 13,3%; 41 – 45: 4,8%, > 45: 1%.
–    Trình độ học vấn của những phụ nữ đến hút thai: đại học 48,6%, trung cấp 8,6%,  trung  học 38,1%, tiểu học 4,8%.
–    Số con của những phụ nữ đến hút thai: chưa có  con  chiếm  33,3%;  1  con:  33,3%;  2  con: 31,4%; 3 con: 1,9%.
–    Lý do đến hút thai: chưa có gia đình 13,3%,
chưa muốn đẻ 15,2%, con nhỏ 25,7%, đủ con 32,4%, dùng thuốc 1,9%, thai chết 11,4%
–    Tiền sử nạo hút thai: chưa nạo hút  chiếm: 57,1%; 1 lần: 28,6%; 2 lần: 8,6%; 3 lần: 5,7% .
–    Tuổi thai (tuần) của lần hút thai này: trên 8 tuần 25,7%, dưới 8 tuần 74,3%.
Xét nghiệm hCG và siêu âm trước khi hút thai: làm hCG hoặc siêu âm 99,0 %, 1% không làm xét nghiệm nào, làm cả hai hCG và siêu âm 83,8%.
Mục tiêu: (1) Đánh giá đặc điểm đối tượng đến hút thai. (2) Đánh giá về sử dụng các biện pháp kế hoạch hoá gia đình trước và sau khi hút thai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu được tiến hành trên 105 phụ nữ đến hút thai trong 3 tháng đầu tại khoa kế hoạch hoá gia đình của Bệnh viên Phụ Sản Trung ương từ ngày 19/12/2006 đến ngày 16/1/ 2007 với can thiệp tư vấn về các biện pháp kế hoạch hoá gia đình sau hút thai. Kết quả: đặc điểm đối tượng: 48,6% các đối tượng có trình độ đại học; Chưa có gia đình 13,3%, chưa có con chiếm 33,3%%; Tuổi thai dưới 8 tuần là 74,3%; 83,8% đối tượng được làm cả hai: xét nghiệm hCG và siêu âm, chỉ có tỷ lệ nhỏ 1% không được làm xét nghiệm; Đánh giá về sử dụng các biện pháp kế hoạch hoá gia đình: Sau hút thai tỷ lệ áp dụng biện pháp tránh thai 90,5% cao hơn so với trong vòng 3 tháng trước khi hút thai 74,3%. Đặc biệt tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai tự nhiên giảm, sử dụng các biện pháp tránh thai có can thiệp tăng lên. Kết luận: phần lớn phụ nữ trước khi hút thai được làm xét nghiệm hCG và siêu âm, sau nạo hút thai tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai tăng lên đặc biệt là các biện pháp có can thiệp

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment