Đánh giá tình hình sốt rét tại tỉnh Bình Thuận (1991 – 2010) và nghiên cứu sử dụng kem xua Soffell
Bệnh sốt rét (SR) là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đối với con người, do một số loài ký sinh trùng thuộc giống Plasmodium (P.) gây ra; mỗi năm trên thế giới có hàng trăm triệu người mắc bệnh và hàng trăm nghìn người chết do SR. Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) được truyền từ người bệnh sang người lành bởi các loài muỗi thuộc giống Anopheles (An.). Bệnh SR phân bố trên thế giới từ 64 vĩ độ Bắc đến 32 vĩ độ Nam, đặc biệt ở các nước thuộc châu Phi, khu vực Nam Mỹ và khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Việt Nam là một trong những quốc gia có chương trình phòng chống sốt rét (PCSR) thành công. Từ năm 1991, chiến lược PCSR bắt đầu được thực hiện, khởi nguồn từ chương trình “Tiêu diệt sốt rét”, “Thanh toán sốt rét”, chuyển sang “Phòng chống sốt rét” và đã đạt được một số kết quả rõ rệt: Năm 2010 bệnh nhân sốt rét (BNSR) giảm 94,0 %, KSTSR giảm 90,7 % và tử vong do SR giảm 99,5 % so với năm 1991. Để đạt được kết quả trên, việc lựa chọn, áp dụng biện pháp phòng chống vector SR phù hợp và hiệu quả là một trong các biện pháp góp phần quan trọng cho thành công của chương trình PCSR ở Việt Nam [89]. Các xã SRLH nặng của tỉnh Bình Thuận là địa bàn sinh sống của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số với các tập quán lao động sản xuất khác nhau; trong đó có điểm chung là canh tác nông nghiệp trên nương rẫy và có thể coi đây là nguồn thu nhập chủ yếu của đồng bào dân tộc ở đây. Do canh tác nương rẫy xa nhà, nên người dân thường làm nhà rẫy tạm bợ, sơ sài ngay trên đất rẫy hoặc nằm ven rừng, gần nơi canh tác. Tình hình SR tại Bình Thuận hiện nay nổi cộm lên vấn đề tỷ lệ mắc SR cao ở những người đi rừng, ngủ rẫy. Tổng kết công tác PCSR 5 năm (2006 – 2010) tại tỉnh Bình Thuận cho thấy: BNSR năm 2010 so với năm 2006 chỉ giảm 6,22 %, KSTSR năm 2010 so năm 2006 tăng 18,24 %. BNSR năm 2009 so với năm 2008 tăng 60 % (720/450). BNSR, KSTSR thường tập trung ở 5 xã sốt rét lưu hành (SRLH) nặng (theo phân vùng dịch tễ SR can thiệp 2009). Trong năm 2010, số BNSR tại huyện tập trung ở đối tượng đi rừng, ngủ rẫy. Số BNSR tại 2 xã Phan Sơn và Phan Tiến (huyện Bắc Bình) trong năm 2010 chiếm tỷ lệ 52,4 % so với 5 xã SRLH nặng (121/231 BNSR) và chiếm 17,8 % so với toàn tỉnh (121/678 BNSR). Các biện pháp phòng chống vector được tiến hành liên tục trong nhiều năm tại các xã SRLH nặng, nhưng mật độ vector truyền bệnh SR chính là An. dirus tại khu vực nhà rẫy vẫn còn cao: Năm 2010 điều tra mật độ muỗi An. dirus tại khu vực nhà rẫy của hai xã Phan Sơn và Phan Tiến cho thấy, phương pháp mồi người trong nhà (MNTN) và mồi người ngoài nhà (MNNN) có mật độ (1,58 con/giờ/người), bẫy đèn trong nhà (BĐTN) có mật độ (8,36 con/đèn/đêm) [79]. Mặc dù chương trình PCSR đã có nhiều thành công, nhưng kết quả chưa thật sự bền vững, bệnh SR vẫn còn đe dọa đến sức khỏe người dân vùng rừng núi, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, nơi chủ yếu có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Do trình độ văn hóa còn thấp, điều kiện kinh tế-xã hội còn khó khăn, nên hiểu biết của người dân về bệnh SR và các biện pháp PCSR còn nhiều hạn chế. Mặt khác, điều kiện địa hình, đất đai, nghề nghiệp và tập quán canh tác ở địa phương nên nhiều người phải đi rừng, làm rẫy và ngủ lại qua đêm trong rừng, nên dễ bị mắc bệnh SR, tỷ lệ nhiễm SR cao, nhưng đến nay chưa có biện pháp PCSR hiệu quả cho đối tượng này.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất