ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG Ở BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI CHƯA LỌC THẬN

ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG Ở BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI CHƯA LỌC THẬN

 ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG Ở BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI CHƯA LỌC THẬN

Trần Văn Vũ 
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Suy dinh dưỡng là biến chứng thường gặp ở bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối. Việc đánh giả tình trạng dinh dưỡng ở đôi tượng bệnh nhân này rất quan trọng vì tình trạng suy dinh dưỡng góp phần làm gia tăng tỷ lệ bệnh tật và tử vong.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng ở đôi tượng bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối chưa lọc thận và lựa chọn phương pháp đánh giả dinh dưỡng thích hợp cho đôi tượng bệnh nhân này.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu và mô tả cắt ngang được thực hiện trên 90 bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối chưa lọc thận tại khoa Thận bệnh viện Chợ Rẫy trong năm 2010. Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân được đánh giá bằng các phương pháp nhân trắc học (BMI, TSF, MAC, MAMC, AMA), bằng các thông số sinh hóa (Albumin, Transferin) và bằng phương pháp SGA.
Kết quả: Trong số 90 bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối chưa lọc thận, có 45 bệnh nhân nữ (50%) và 45 bệnh nhân nam (50%), tỷ lệ nam : nữ = 1:1, tuổi trung bình: 53,04 ± 20,13 (18-88 tuổi). Tỷ lệ bệnh nhân bị suy dinh dưỡng được đánh giá bằng nhiều phương pháp khác nhau xác định dao động từ 22,2% đến 78,9%. Kết quả đánh giá dinh dưỡng bằng thông số SGA tương quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) với nhiều chỉ số đánh giá dinh dưỡng khác như: trọng lượng (r = – 0,385, p < 0,001), chiều cao (r = – 0,220, p < 0,037), BMI (r = – 0,289, p < 0,006), MAC (r = – 0,4, p < 0,001), MAMC (r = – 0,418, p < 0,001), AMA (r = – 0,411, p < 0,001), Transferin huyết thanh (r = – 0,256, p < 0,015), Creatinin huyết thanh (r = – 0,214, p < 0,043), Albumin huyết thanh (r = – 0,285, p < 0,007). Kết quả thu được tương tự khi so sánh tương quan giữa chỉ số albumin huyết thanh với các thông số dinh dưỡng khác.
Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối chưa lọc thận bị suy dinh dưỡng được xác định dao động từ 22,2% đến 78,9% tùy theo chỉ số đánh giá. Chúng tôi gợi ý sử dụng phương pháp SGA để đánh giá tình trạng dinh dưỡng một cách định kỳ ở đối tượng bệnh nhân này.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, tỷ lệ mắc bệnh thận mạn đang ngày càng gia tăng trên toàn thế’ giới, được cho là hệ quả tất yếu của việc không ngừng gia tăng bệnh đái tháo đường và tăng huyết áp(18). Mặc dù có những cải tiến đáng kể trong kỹ thuật điều trị thay thế’ thận nhưng tỷ lệ bệnh tật và tử vong ở những bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối vẫn còn duy trì ở mức cao(19). Trong số’ các yếu tố’ ảnh hưởng bất lợi trên kết quả lâm sàng của những đối tượng bệnh nhân này, tình trạng suy dinh dưỡng protein – năng lượng đóng vai trò quan trọng)16’17’21’22). Nhiều nghiên cứu cho thấy suy dinh dưỡng protein – năng lượng có liên quan đến các tình trạng bệnh lý và tử vong ở bệnh nhân suy thận mạn<26’23’7’8). Có nhiều bằng chứng gợi ý về sự hiện diện của suy dinh dưỡng protein – năng lượng phối hợp với tình trạng viêm ở bệnh nhân suy thận mạn làm gia tăng nguy cơ nhiễm khuẩn, chậm lành vết thương)14’20’25’27). Hơn nữa, tình trạng suy dinh dưỡng protein – năng lượng và tiến triển ngày càng xấu hon của tình trạng này theo thòi gian có liên quan đến sự gia tăng yếu tố’ nguy co tử vong do tai biến tim mạch ở bệnh nhân lọc thận(10’15).
Trên thế’ giới có rất nhiều nghiên cứu lớn đánh giá tình trạng dinh dưỡng bằng nhiều phưong pháp khác nhau tập trung vào đối tượng bệnh nhân suy thận mạn đang lọc thận nhân tạo hay thẩm phân phúc mạd4’1’3). Tuy nhiên, ở đối tượng bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối chưa lọc thận thì chưa được nghiên cứu nhiều. Tại Việt Nam chưa có tác giả nào đề cập cũng như nghiên cứu về vấn đề này. Từ 
suy thận mạn giai đoạn cuối chưa lọc thận nhằm xác đinh tỷ lệ suy dinh dưỡng đồng thời lựa chọn phương pháp đánh giá dinh dưỡng thích hợp cho đối tượng bệnh nhân này.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment