Đánh giá tình trạng kháng insulin ở bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang

Đánh giá tình trạng kháng insulin ở bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang

Hội chứng buồng trứng đa nang (HCBTĐN) là rối loạn nội tiết thường gặp ở phụ nữ, đặc trưng  bằng  tình  trạng  cường  androgen  (rậm lông, trứng cá, tăng tiết bã nhờn…), vô sinh do
mất phóng noãn và/hoặc buồng trứng đa nang. Tỷ lệ HCBTĐN có thể đạt tới 12% phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Các triệu chứng ở bệnh nhân (BN) có HCBTĐN (rối loạn kinh nguyệt, vô sinh, rậm lông, trứng cá…) là hậu quả của sự đề kháng  insulin.  Mặt  khác,  về  lâu  dài,  sự  đề kháng insulin cũng gây ra nhiều biến chứng như đái tháo đường, rối loạn lipid máu và nặng nề hơn là các bệnh tim mạch [11]. Kháng insulin thể hiện tình trạng rối loạn chuyển hoá glucose và thường xuất hiện trước khi có các rối loạn glucose máu. Vì vậy, việc phát hiện tình trạng kháng insulin máu rất có ý nghĩa trong việc dự phòng  các  biến  chứng  về  sau  ở  BN  có HCBTĐN. Kháng insulin trên lâm sàng thường được đánh giá thông qua việc chẩn đoán hội chứng kháng insulin, nồng độ insulin máu lúc đói và tính chỉ số HOMA – IR (Homeostasis Model Assessment of Insulin Resistance), chỉ số glucose máu /insulin máu lúc đói (Go/Io) [1, 5]. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu đánh giá tình trạng kháng insulin ở BN có HCBTĐN, nhưng cho tới nay tại Việt Nam hiện có rất ít nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài với mục tiêu:
1.    Nhận xét tỷ lệ mắc hội chứng  kháng insulin  ở  bệnh  nnhân  có  hội  chứng  buồng trứng đa nang.
2.    Đánh giá tình trạng kháng insulin thông qua insulin máu lúc đói, chỉ số  HOMA – IR, glucose/insulin máu lúc đói ở BN có hội chứng buồng trứng đa nang.
II.    ĐỐI  TƯỢNG  VÀ  PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Đối tượng nghiên cứu:
Tiêu chuẩn lựa chọn BN:
Nhóm  bệnh  (49  BN):  dựa  theo  quy  trình chẩn đoán do Homburg đề xuất năm 2002, chúng tôi lựa chọn những BN từ 18 – 49 tuổi, có ít nhất một trong các triệu chứng sau: Rối loạn kinh nguyệt (kinh thưa, vô kinh, kinh nguyệt không đều), vô sinh, rậm lông, trứng cá.
BN được siêu âm đánh giá hình thái buồng trứng với hình ảnh buồng trứng đa nang (thể
tích buồng trứng > 8 cm3, có ít nhất 10 nang trứng kích thước từ 2 – 9 mm phân bố ở ngoại biên của buồng trứng). Đây được coi là tiêu chuẩn vàng của nhóm bệnh [6].
Nhóm chứng (36 người): phụ nữ khoẻ mạnh từ 18 – 49 tuổi, không sử dụng thuốc tránh thai trong vòng 3 tháng trước khi tới khám và không có hình ảnh buồng trứng đa nang trên siêu âm.

Tiêu chuẩn loại trừ: chúng tôi loại ra khỏi nghiên cứu những người có một trong các biểu hiện sau: đang có bệnh cấp tính hoặc mạn tính, dùng thuốc ảnh hưởng tới chuyển hoá glucose (corticoide, salbutamol, lợi tiểu thiazid…) hoặc sử dụng thuốc tránh thai trong vòng 3 tháng trước khi đến khám.
2.    Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang có đối chứng.
Thu thập số liệu: nghiên cứu được từ tháng 10/2008 đến tháng 10/2009. Sau khi giải thích về quy trình nghiên cứu và được sự đồng ý của đối tượng tham gia nghiên cứu, chúng tôi thu thập số liệu theo mẫu bệnh án thống nhất:
Các chỉ số nghiên cứu:
–    Khai thác tiền sử kinh nguyệt, thai sản.
–    Đo chiều cao: dùng thước đo gắn liền với bàn cân. Kết quả tính bằng mét (m).
–    Đo  cân  nặng:  dùng  cân  bàn  có  sai  số
< 100g. Kết quả tính bằng kilogram (kg).
–    Đo vòng bụng qua rốn kết quả tính bằng cm.
–    Đo huyết áp (HA) cánh tay vào buổi sáng, bằng HA kế thuỷ ngân. Kết quả tính: mmHg.
–    Đánh giá cường androgen: rậm lông, trứng cá, mọc tóc mai.
–    SA đánh giá hình thái buồng trứng tại khoa Chẩn đoán hình ảnh – BV Phụ Sản Trung ương.
–    XN sinh hoá được làm tại khoa Sinh hoá – BV Bạch Mai máy phân tích tự động Hitachi 912. BN
nhịn ăn sáng và lấy máu tĩnh mạch:
+ Định lượng TG, HDL – C, LDL – C, cholesterol bằng phương pháp enzym so màu;
+ Đinh lượng insulin đói theo phương pháp miễn dịch điện hóa;
+  Định  lượng  glucose  máu  bằng  phương pháp enzym so màu;
+ Insulin máu lúc đói;
+ Chỉ số HOMA – IR = (Go x Io)/22,5;
+ Chỉ số Glucose máu /Insulin máu đói (Go/Io).
Những BN có GM đói < 7 mmol/l sẽ được làm nghiệm pháp dung nạp glucose máu (NPDNGM) theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới.
3.    Đánh giá các chỉ số nghiên cứu
Phân loại BMI: theo tiêu chuẩn dành cho người châu Á của Tổ chức Y tế Thế giới [10]. Công thức tính BMI = cân nặng/chiều cao2  (kg/ m2. Gầy: BMI < 18,5 kg/m2. Bt: 18,5 ≤  BMI
< 23 kg/m2. Quá cân – béo phì: BMI ≥ 23 kg/m2.
Đánh giá rối loạn GM: theo tiêu chuẩn của ADA 2003 [1].
+ ĐTĐ: GM đói ≥ 7 mmol/l ở 2 lần xét nghiệm trong 2 ngày khác nhau hoặc GM thời điểm 120 phút trong NPDNGM ≥ 11,1 mmol/l
+ Rối loạn GM đói: 5,6 ≤ GM đói < 7 mmol/l
+ RLDNGM: 7,8 ≤ GM thời điểm 120 phút < 11,1mmol/l
4.    Đánh giá kháng insulin:
Hội chứng kháng insulin: dựa vào tiêu chuẩn của IDF [7].
+ Béo bụng: đường kính vòng bụng ≥ 80 cm.
+ Trigliceride ≥ 1,7 mmol/l;
+ HDL – cholesterol < 1,29 mmol/l;
+ HA tâm thu ≥ 130 mmHg và/hoặc HA tâm trương ≥ 85 mmHg;
+ GM đói ≥ 5,6 mmol/l.
Chẩn đoán xác định khi có tiêu chuẩn 1 và ít nhất 2 tiêu chuẩn còn lại.
5.    Xử lý số liệu trên chương trình SPSS  16.0. Tính và so sánh các giá trị trung bình bằng test Student với p < 0.05.
Mục tiêu: (1). Xác định tỷ lệ mắc hội chứng kháng insulin ở bệnh nhân có hội chứng buồng trức đa nang (2) Đánh giá tình trạng kháng insulin ở bệnh nhân có hội chứng buồng trức đa nang (HCBTĐN). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang 49 bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang và 36 phụ nữ khoẻ mạnh từ 18 – 49 tuổi. Đánh giá hội chứng kháng insulin ở bệnh nhan có hội chứng buồng trứng đa nang theo tiêu chuẩn IDF dành cho người Châu Á và một số chỉ số kháng insulin (insulin lúc đói, chỉ số HOMA – IR, GM/Insulin máu lúc đói). Kết quả: BMI trung bình ở nhóm bệnh (20,3 ± 1,99 kg/m2) không có sự khác biệt so với nhóm chứng (20,3 ± 1,81 kg/m2), p > 0,05. Vòng bụng tế bào ở nhóm bụng 68,55±6,56; nhóm chứng 67,28 ± 4,35, p > 0,05. Trong 49 bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang, tỷ lệ BN bị RLGM chiếm 28,6% (14/49 bệnh nhân). Nhóm bệnh có nồng độ insulin máu lúc đói trung bình (12,03 ± 9,47 mU/ml) và chỉ số HOMA – IR trung bình (2,71 ± 2,06) cao hơn so với nhóm chứng (p < 0,05), nhưng chỉ số Go/Io không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Nồng độ insulin máu lúc đói trung bình ở nhóm bệnh nhân có RLGM (17,01 ± 15,06 mU/ml) cao hơn so với nhóm bệnh nhân  không có RLGM (10,02 ± 5,05 mU/ml), p < 0,05. Chỉ số HOMA – IR ở nhóm bệnh nhân   có RLGM (3,82 ± 3,18) cũng cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không RLGM (2,17 ± 1,18), p < 0,05. Không có sự khác biệt về chỉ số Go/Io giữa nhóm bệnh nhân  có RLGM và nhóm bệnh nhân không RLGM (p > 0,05). Kết luận: tỷ lệ bệnh nhân  mắc hội chứng kháng Insulin ở bệnh nhân  có hội chứng buồng trứng đa nang là 8,2%. Tình trạng kháng Insulin ở bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang tăng rõ rệt so với nhóm chứng (chỉ số HOMA tế bào ở nhóm bệnh cao hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng), đặc biệt ở nhóm có rối loạn glucose máu.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment