Đánh giá tình trạng mạch máu tay trước và say phẫu thuật mở thông động mạch tĩnh mạch để chạy thận nhân tạo chu kỳ

Đánh giá tình trạng mạch máu tay trước và say phẫu thuật mở thông động mạch tĩnh mạch để chạy thận nhân tạo chu kỳ

Đánh giá tình trạng mạch máu của bệnh nhân trước mở thông động tĩnh mạch và đối chiếu với kết quẩ sau phẫu thuật 8 tuần. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu 50 bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên bị suy thận giai đoạn cuối có chỉ định chạy thận nhân tạo chu kỳ. Các bệnh nhân được khám lâm sàng và làm siêu âm Doppler mạch để đánh giá tình trạng mạch máu cổ tay tạo thông động tĩnh mạch trước phẫu thuật và sau phẫu thuật 8 tuần. Kết quẩ và kết luận: 92% bệnh nhân nghiên cứu có đường kính động mạch quay trên 2mm, 86% bệnh nhân nghiên cứu có đường kính tĩnh mạch đầu trên 2mm. Đường kính trung bình động mạch quay và tĩnh mạch đầu không khác biệt có ý nghĩa khi so sánh giữa nam và nữ, giữa nhóm trên 55 tuổi và dưới 55 tuổi cũng như giữa nhóm đái tháo đường và không đái tháo đường. Tỷ lệ bệnh nhân có tĩnh mạch đạt yêu cầu cho chạy thận nhân tạo sau mổ 8 tuần ở nhóm có đường kính mạch máu trên 2mm cao hơn có ý nghĩa so với nhóm có đường kính mạch máu dưới 2mm (p < 0,05). Kết quẩ nghiên cứu cho thấy việc thăm dò kỹ tình trạng mạch máu trên lâm sàng kết hợp với siêu âm Doppler có thể giúp lựa chọn bệnh nhân phù hợp cho tạo thông động tĩnh mạch, góp phần làm tăng tỷ lệ thành công của phẫu thuật.

Trong những năm gần đây, số lượng bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối và được thực hiện các biện pháp điều trị thay thế thận suy trên thế giới cũng như trong nước ngày càng gia tăng. Điều đó một phần là nhờ những tiến bộ khoa học trong lĩnh vực lọc máu ngoài thận, đời sống bệnh nhân lọc máu kéo dài hơn, tỷ lệ tử vong giảm đi và điều quan trọng hơn là do sự phát triển kinh tế mà nhiều bệnh nhân suy thận có điều kiện tiếp cận với các phương pháp này. Hiện nay có ba phương pháp điều trị thay thế thận suy là ghép thận, thận nhân tạo và thẩm phân phúc mạc [1]. Thận nhân tạo là phương pháp điều trị thay thế thận suy chủ yếu ở

Việt Nam cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới. Ví dụ ở Mỹ, năm 1995, trong tổng số hơn 250000 bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối thì gần 200000 người được chạy thận nhân tạo, 12000 người ghép thận, còn lại là lọc màng bụng [10]. Ở nước ta hiện nay, số bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối được chạy thận nhân tạo chiếm khoảng 80% tổng số bệnh nhân được điều trị.

Thông động tĩnh mạch tự thân là đường vào mạch máu dài hạn có ưu thế nhất cho bệnh nhân chạy thận nhân tạo, do tính an toàn, bền lâu, tiện lợi cho sử dụng và rẻ tiền của nó. Tuy nhiên, việc tạo thông động tĩnh mạch không phải luôn dễ dàng và thành công. Tỷ lệ thành công của phẫu thuật này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, như tuổi hay tình trạng bệnh lý nền của bệnh nhân, kinh nghiệm của phẫu thuật viên, thời gian chờ đợi sau mổ, và đặc biệt là chất lượng mạch máu của bệnh nhân. Vì vậy, thăm dò mạch máu của người bệnh một cách kỹ càng trước khi tiến hành phẫu thuật là một bước vô cùng quan trọng và giúp làm tăng tỷ lệ thành công sau phẫu thuật. [1,4]. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy việc kết hợp khám lâm sàng và siêu âm mạch máu làm giảm đáng kể tỷ lệ thất bại [11]

Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào đánh giá tình trạng mạch của bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối trước khi được mở thông động tĩnh mạch ngoại vi và ảnh hưởng của nó đến kết quả phẫu thuật về sau.Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá tình trạng mạch máu của bệnh nhân có chỉ định chạy thận nhân tạo chu kỳ trước phẫu thuật tạo thông động tĩnh mạch qua thăm khám lâm sàng kết hợp với siêu âm Doppler mạch. Các kết quả này sẽ được đối chiếu với kết quả mở thông động tĩnh mạch tự thân sau đó.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment