Đánh giá tình trạng mất răng người lớn ở các lứa tuổi và nhu cầu phục hình bằng cầu cố định
Khám lâm sàng răng miệng được thực hiên trên 1.125 người độ tuổi từ 20-60 là cán bộ và công nhân của các cơ quan và xí nghiệp năm 2006-2007 với mục tiêu là đánh giá tình trạng mất răng và nhu cầu phục hình cố định. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mất răng ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng còn cao (35,2%) với một nhu cầu phục hình lớn (33,4%) Chỉ có 15% người được phục hình. Mất răng chủ yếu là do biến chứng của sâu răng: 47,35%; do viêm quanh răng: 37,43%; do sang chấn: 5,2%; do răng 8 lệch: 8,98% và do nguyên nhân khác: 1,04%. Nghiên cứu đề xuất các giải pháp dự phòng mất răng bao gồm giáo dục chăm sóc sức khỏe răng miệng ban đầu cho cộng đồng, tạo ý thức chủ động chăm sóc răng miệng cho người dân, phòng chống bệnh sâu răng, phòng chống bệnh vùng quanh răng và phục hình cho những răng đã mất.
1. ĐẶT VẤN ĐỂ
Mất răng không những ảnh hưởng đến thẩm mỹ và chức năng ăn nhai mà còn gây mất thăng bằng về cung răng; vùng khuyết răng là nguyên nhân gây lệch và mất những răng còn lại của cung răng. Do đó, mất răng cũng được coi là một tình trạng bệnh lý gây ảnh hưởng tới tại chỗ và toàn thân.
Công tác chăm sóc sức khỏe răng miệng ở nước ta đã có những thành công đáng kể nhưng tỷ lệ mất răng còn tương đối cao. Các điều tra về tỷ lệ mất răng ở thập kỷ 90 của thế kỷ trước đã cho thấy một tỷ lệ mất răng cao và nhu cầu phục hình lớn trong cộng đồng. Theo Võ Thế Quang (1990) [3], tỷ lệ mất răng ở lứa tuổi 35 – 44 là 47,33%. Tỷ lệ mất răng trong báo cáo của Vũ Kiều Diễm (1991) [2] là 68,66%. Theo Phạm Văn Việt [7], có 91% số người trên 55 tuổi tại Hà Nội bị mất răng. Theo Nguyễn Văn Bài [1], tỷ lệ mất răng ở miền Bắc là 42,1% và nhu cầu phục hình răng ở lứa tuổi 20-34 là 2,4%; 35-44 tuổi là 12,55%; 45 – 64 tuổi là 60,61%; và trên 65 tuổi là 90,34%. Hơn 10 năm qua, hệ thống chăm sóc sức khoẻ răng miệng tại Hà Nội đã có bước phát triển mạnh mẽ và ngày càng có nhiều bệnh nhân được điều trị phục hình.
Trong số nhiều phương pháp phục hình răng, phục hình tháo lắp (với các ưu điểm là giá thành rẻ, đơn giản và dễ làm, nhưng khả năng phục hồi chức năng ăn nhai kém, không thuận tiện trong sinh hoạt) dần trở nên không phù hợp khi mà khả năng chi trả của người bệnh đang tăng lên. Trong khi đó phục hình bằng Implant (với giá thành còn quá cao so với thu nhập của người dân) chưa thể là phương pháp có thể áp dụng rộng rãi. Như vậy, phục hình bằng cầu cố định, với những ưu điểm và phí tổn ở mức trung gian giữa hai phương pháp trên,hiện đang là giải pháp thực tế cho số đông người mất răng. Để tiến hành phục hình cố định bằng cầu trên diện rộng, cần phải có số liệu về nhu cầu của biện pháp can thiệp này trong cộng đồng.
Vì những lý do nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm Đánh giá tình trạng mất răng người lớn ở các lứa tuổi và nhu cầu phục hình bằng cầu cố định.
2. ĐốI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm tất cả các đối tượng có độ tuổi từ 20 – 60 hiện đang sinh sống tại Hà Nội. Tuy nhiên, chọn mẫu ở lứa tuổi lao động thường là khó khăn, vì vậy chúng tôi lấy mẫu từ các tổ chức như: cán
bộ công nhân viên cơ quan, xí nghiệp, nhà máy… được phân bổ cả nội và ngoại thành Hà Nội. Trong mẫu nghiên cứu, chúng tôi chia làm 3 nhóm tuổi:
– Nhóm tuổi 20 – 34: vì ở nhóm tuổi này răng vĩnh viễn đã mọc đầy đủ. Nhóm tuổi này rất quan trọng để đánh giá bệnh nha chu của thanh niên.
– Nhóm tuổi 35 – 44: là nhóm chuẩn để theo dõi tình trạng sức khỏe răng miệng ở người lớn. Có thể dùng dữ liệu từ lứa tuổi này để biết rõ hậu quả toàn bộ của bệnh mất răng mức độ trầm trọng của bệnh nha chu, hiệu quả chung của việc chăm sóc.
– Nhóm tuổi 45 – 60: dữ liệu của nhóm tuổi này phản ánh hiệu quả toàn bộ của dịch vụ chăm sóc sức khỏe răng miệng trong cộng đổng và là cơ sở cần thiết cho việc lập kế hoạch chăm sóc thích hợp cho người có tuổi sau này.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
– Thiết kế nghiên cứu: điều tra ngang.
– Chọn mẫu nghiên cứu: dùng công thức tính cỡ mẫu nghiên cứu mô tả để ước tính tỷ lệ trong quần thể
_^2 p(1 – p)
ni = n2 = n3 = Z?1-a/2)
Trong đó: n1, n2, n3 cho mỗi nhóm tuổi
n: cỡ mẫu nghiên cứu (n = n1 + n2 + n3)
p: tỷ lệ mất răng trong cộng đổng theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Bài là 42%.
Z(1-a/2): hệ số tin cậy ở mức xác suất 95%
À: khoảng sai lệch mong muốn giữa tỷ lệ thu được từ mẫu và tỷ lệ của quần thể Tổng số người được chọn để nghiên cứu: n = n1 + n2 + n3 = 1.125 người.
– Các tính toán thống kê có sự trợ giúp của phần mềm tính toán SPSS 11.5. Kết quả được biểu thị bằng bảng với số lượng và tỷ lệ.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích