ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG RĂNG MIỆNG CỦA HỌC SINH KHIẾM THỊ TRƯỜNG PTĐB NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TP.HỒ CHÍ MINH NĂM 2010
ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG RĂNG MIỆNG CỦA HỌC SINH KHIẾM THỊ TRƯỜNG PTĐB NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TP.HỒ CHÍ MINH NĂM 2010
Trương Thị Hoài An*, Nguyễn Thị Hồng*
TÓM TẮT :
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá tình trạng răng miệng của các học sinh (HS) khiếm thị, trên cơ sở đó xây dựng chương trình giáo dục sức khỏe răng miệng (GDSKRM ) thích hợp cho các HS khiếm thị thông qua vai trò của giáo viên và bảo mẫu, và bước đầu đánh giá hiệu quả của chương trình này sau 4 tháng thực hiện, qua đó cung cấp kiến thức dự phòng bệnh răng miệng cho HS khiếm thị.
Phương pháp: Mẫu nghiên cứu gồm 168 HS khiếm thị từ 6 – 18 tuổi đang học tại trường phổ thông đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu Tp.HCM từ tháng 8 năm 2010 đến tháng 12 năm 2010. Phỏng vấn riêng từng HS với cùng một bộ câu hỏi để đánh giá kiến thức, thái độ, thói quen chăm sóc răng miệng. Khám ghi nhận tình trạng vệ sinh răng miệng (VSRM) bằng chỉ số OHI-S. So sánh trước và 4 tháng sau khi được GDSKRM bằng cách tập huấn cho giáo viên và bảo mẫu để truyền đạt lại cho HS.
Kết quả: Mẫu nghiên cứu có 50% HS 6-11 tuổi, 27% HS 12-15 tuổi và 23% HS 15-18 tuổi, trung bình 11,8 ± 3,9 tuổi. Có 89% HS bị khiếm thị bẩm sinh, 64% HS bị mù. Tỉ lệ hiện mắc sâu răng là 71%. Tỉ lệ sâu răng vĩnh viễn ở nhóm 6-11 tuổi là 23%, tăng cao 72% ở nhóm 12-15 tuổi, và 80% ở nhóm 16-18 tuổi. Trung bình SMT-R, SMT-MR, nhu cầu trám và nhổ răng tăng dần theo tuổi (p<0,001). Tỉ lệ mắc bệnh nha chu là 23%, trong đó 2% chảy máu nướu và 21% có vôi răng. Có đến 7% bị gãy răng cửa do té chấn thương. Sau GDSKRM, có sự gia tăng đáng kể tỉ lệ HS có kiến thức về bệnh sâu răng (p<0,001) và bệnh nha chu (p<0,05), có thái độ tích cực về vấn đề chải răng và hạn chế ăn thức ăn ngọt gây hại cho răng (p<0,001), có thói quen chải răng > 1 lần/ngày ở nhóm HS 6-11 tuổi (p<0,001), điểm số OHI-S của HS cả ba nhóm tuổi đều giảm thể hiện tình trạng VSRM đã tốt hơn (p<0,05).
Kết luận: Có sự tăng lên đáng kể chỉ số trung bình SMTR theo độ tuổi ở HS khiếm thị. Chương trình giáo dục sức khỏe răng miệng cho HS khiếm thị thông qua vai trò của giáo viên và bảo mẫu đem lại hiệu quả nhất định. Dù vậy, cần thêm những nghiên cứu khác về phương pháp giáo dục có tính mô phỏng hơn giúp học sinh khiếm thị kiểm soát tốt hơn tình trạng răng miệng.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất