Đánh giá tình trạng rối loạn đường máu của bệnh nhân cấp cứu ngoại khoa

Đánh giá tình trạng rối loạn đường máu của bệnh nhân cấp cứu ngoại khoa

Mục tiêu nghiên cứu: 1) Đánh giá tình trạng rối loạn đường máu của bệnh nhân cấp cứu ngoại khoa; 2) Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ đường máu và một số chỉ số lâm sàng, sinh hóa, huyết học của bệnh nhân cấp cứu ngoại khoa. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả trên 563 bệnh nhân cấp cứu ngoại khoa >15 tuổi, không có bệnh đái tháo đường cũng như các can thiệp làm tăng đường máu. Đánh giá đường máu tĩnh mạch, một số chỉ số lâm sàng; cận lâm sàng, sinh hóa, huyết học lúc bệnh nhân vào cấp cứu. Kết quả: 30.4% bệnh nhân có đường máu >7mmol/l, 3.2% có đường máu <3.9mmol/l; nồng độ đường máu và tỷ lệ tăng đường máu ở nhóm tuổi 56-75 cao hơn so với nhóm 15-35 và 36-55 (7.4 ± 4.3 so với 6.7 ± 2.3 và 6.3 ± 1.9, 37.1% so với 29.9% và 26.6%, p<0.05); đường máu tăng lên đáng kể ở nhóm bệnh nhân có đau không chịu được so với các nhóm còn lại (45.3% so với 27.3% và 25.4%, p<0.05); tăng đường máu gặp nhiều hơn ở nhóm bệnh nhân có nồng độ natri huyết thấp và nồng độ ure huyết cao (44.4% so với 26.0%; và 37.5% so với 26.2%, p<0.05). Kết luận: 30.4% bệnh nhân có tăng đường máu, 3.2% có hạ đường máu. Nồng độ đường máu và tỷ lệ tăng đường máu cao hơn một cách đáng kể ở nhóm tuổi 56-75, bệnh nhân đau không chịu được, bệnh nhân có nồng độ natri máu thấp hoặc ure máu cao.

Khi bị rơi vào một tình trạng cấp cứu cơ thể sẽ nhanh chóng phản ứng lại nhờ sự thay đổi mang tính chất tạm thời của một số hormone stress như GH, cortisol, adrenalin, glucagon cũng như nồng độ một số cytokine khác. Hâu quả của quá trình này là sự thay đổi về nồng độ đường máu, mà trên lâm sàng chúng ta hay gặp là tình trạng tăng đường máu, ít gặp hơn là tình trạng hạ đường máu. Bên cạnh đó còn có sự thay đổi của các chỉ số lâm sàng khác như huyết áp, mạch, tri giác, độ đau cũng như các chỉ số cân lâm sàng như điên giải, ure huyết, số lượng hồng cầu, hemoglobin, hematocrit, tiểu cầu. Những thay đổi này có thể là nguyên nhân hoặc là hâu quả của tình trạng rối loạn đường máu.
Nghiên cứu của một số tác giả gần đây cho thấy tình trạng rối loạn đường máu (chủ yếu là tăng đường máu) dù chỉ xảy ra tạm thời trong các trường hợp cấp cứu vẫn có thể gây ra các tác động có hại cho người bênh. Tăng đường máu làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn và châm liền sẹo ở các bênh nhân sau mổ do gây suy giảm chức năng miễn dịch và phản ứng viêm, là một trong những yếu tố tiên lượng độc lập đối với thở máy kéo dài, thời gian nằm viên, biến chứng sau mổ cũng như tình trạng sống – chết của bênh nhân chấn thương sọ não [3], [7]. ơ bênh nhân cấp cứu ngoại khoa nói chung có thể gặp tăng hoặc giảm đường máu với tỷ lê cao; rối loạn đường máu cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, tuy nhiên chưa có thông báo nào tại Viêt Nam về vấn đề này. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm các mục tiêu:
•    Đánh giá tình trạng rối loạn đường máu của bênh nhân cấp cứu ngoại khoa
•    Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ đường máu và một số chỉ số lâm sàng, sinh hóa, huyết học của bênh nhân cấp cứu ngoại khoa.
n. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân: Tuổi >15; Bênh nhân có bênh lý cấp cứu ngoại khoa hay chấn thương.
Tiêu chuẩn loại trừ khỏi nghiên cứu: Bênh nhân có tiền sử đái tháo đường và các bênh lý nội tiết gây tăng đường máu; Bênh nhân được truyền đường trước khi tới Viêt Đức trong vòng 24h; Không thu thập đủ dữ liêu nghiên cứu hoặc thông tin không rõ ràng.
2.    Phương pháp nghiên cứu
2.1.    Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả tiến cứu, được tiến hành tại Phòng Cấp Cứu – Khoa Khám Bênh Bênh Viên Viêt Đức từ tháng 7/2007- 1/2009.
2.2.    Tiến hành nghiên cứu
Hỏi bệnh: tất cả các bênh nhân có bênh lý cấp cứu hay chấn thương ngay khi vào phòng cấp cứu được chính người nghiên cứu khai thác nếu bênh nhân tỉnh hoàn toàn hoặc qua người thân nếu có rối loạn tri giác về tuổi, tiền sử bênh tật, tiền sử liên quan đến tăng đường máu, dùng thuốc, thời gian tai nạn, thời gian phát bênh phải đến Viêt Đức, bữa ăn cuối cùng trước khi vào viên.
Đánh giá: Điểm GCS, mạch, huyết áp, tần số thở, độ đau (bằng thang điểm VAS – Visual Analogue Scale).
Xét nghiệm: Xét nghiêm đường máu tĩnh mạch nhanh bằng máy Lifescan (2004, mã số L6103RB00097) và thanh giấy thử có tẩm hoá chất khô của hãng Johnson – Johnson. Tiến hành sát khuẩn rồi lấy máu tĩnh mạch ở bên tay không có đường truyền dịch bằng bơm tiêm rồi nhỏ một giọt máu vừa đủ để phủ đầy lên vùng phản ứng của que thử. Máy đo đường huyết sẽ tự động hiển thị kết quả tính theo đơn vị mmol/l sau 15 giây.
Điên giải (Na+), ure máu, cùng thời điểm lấy máu tĩnh mạch đo nồng độ đường máu; Công thức máu: Hb, Hct
Xử lý số liệu nghiên cứu: Số liêu nghiên cứu được xử lý bằng chương trình phần mềm SPSS 16.0.
–    Test T: so sánh nồng độ đường máu trung bình của 2 nhóm.
–    Test X2: so sánh tỷlê tăng đường máu của 2 nhóm.
–    p <0.05 được coi là khác biêt có ý nghĩa thống kê.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment