Đánh giá tình trạng sẹo bọng của phẫu thuật cắt bè có ghép màng ối và cắt bè áp Mitomycin C

Đánh giá tình trạng sẹo bọng của phẫu thuật cắt bè có ghép màng ối và cắt bè áp Mitomycin C

Luận văn Đánh giá tình trạng sẹo bọng của phẫu thuật cắt bè có ghép màng ối và cắt bè áp Mitomycin C điều trị tăng nhãn áp tái phát sau mổ lỗ rò. Glôcôm là một bệnh phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Ở hầu hết các nước, glôcôm là nguyên nhân thứ 2 gây mù lòa và cũng là mối đe dọa nguy hiếm đối với sức khoẻ cộng đồng. Theo Tổ chức Y tế Thế giới dự tính đến năm 2020 có khoảng 80 triệu người mắc bệnh Glôcôm, chiếm 2,86% dân số (độ tuổi > 40 tuổi), trong đó có 11,2 triệu người bị mù do bệnh này [1].

Cho đến nay cắt bè củng giác mạc vẫn là phương pháp phẫu thuật chính trong điều trị glôcôm. Trong phẫu thuật này qua lỗ cắt bè ra khoang dưới kết mạc, thủy dịch sẽ lưu thông trực tiếp từ hậu phòng ra tiền phòng và tạo thành một bọng thấm (sẹo bọng). Đế đánh giá kết quả của phẫu thuật cắt bè các tác giả căn cứ vào nhãn áp điều chỉnh. Tuy nhiên đế tiên lượng lâu dài hình thái sẹo bọng rất quan trọng. Một sẹo bọng tốt với dấu hiệu tỏa lan vô mạch chứng tỏ thủy dịch lưu thông từ trong nhãn cầu ra ngoài tốt, từ đó cho phép tiên lượng mức nhãn áp điều chỉnh. Theo tiến triến tự nhiên, vết mổ liền sẹo. Theo thời gian sẹo bọng thấm có thế bị xơ hóa dẫn tới mất chức năng dẫn lưu thủy dịch gây tăng nhãn áp thứ phát. Đế khắc phục tình trạng này, từ cuối những năm 80, trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu như cắt bỏ bao Tenon, hớt bỏ lớp thượng củng mạc trong phẫu thuật, tiêm cortison dưới kết mạc, chất độn bằng collagen hoặc ghép màng ối. Việc sử dụng thuốc chống chuyến hóa trong và sau mổ cắt bè cho những trường hợp có nguy cơ cao xơ hóa sẹo bọng là phổ biến nhất. Tuy nhiên với khả năng chống xơ rất mạnh, theo thời gian chất chống chuyến hóa khiến sẹo bọng trở nên mỏng và vô mạch, dễ bị rò vỡ bọng dẫn đến nhiễm trùng sẹo bọng và nhiễm trùng nội nhãn. Theo nghiên cứu của Kiyofumi M (1997) 1,1% mắt dùng Mitomycin C (MMC) và 1,3% mắt có áp 5 Fluorouralcil (5FU) bị nhiễm trùng sẹo bọng [2]. Những năm gần đây ghép màng ối trong phẫu thuật cắt bè củng giác mạc cũng là lựa chọn trong nhiều nghiên cứu. Với những đặc tính sinh học ưu việt như khả năng ức chế quá trình tạo xơ, ức chế quá trình tăng sinh mạch máu, chống viêm, kháng khuẩn, ức chế miễn dịch và không bị thải loại mảnh ghép, màng ối có tác dụng chống tăng sinh xơ hóa sẹo bọng thấm. Năm 2005, khi nghiên cứu ba nhóm bệnh nhân phẫu thuật cắt bè, Zheng K kết luận rằng phẫu thuật cắt bè củng giác mạc ghép màng ối và phẫu thuật cắt bè củng giác mạc áp MMC có tỷ lệ thành công tương đương nhau và cao hơn so với mổ cắt bè củng giác mạc thông thường [3]. Tác giả cũng nhận thấy việc dùng màng ối an toàn hơn so với áp MMC vì biện pháp này giảm được biến chứng tạo sẹo bọng mỏng, rò sẹo bọng, nhãn áp thấp dai dẳng, phù hoàng điếm do nhãn áp thấp. Nhiều nghiên cứu cũng đã được tiến hành đế so sánh kết quả giữa hai nhóm cắt bè ghép màng ối và cắt bè áp MMC. Các tác giả kết luận rằng sử dụng màng ối có thế nâng cao tỷ lệ thành công của phẫu thuật, duy trì chức năng bọng thấm lâu dài và giảm được biến chứng của sẹo bọng thấm.
Ngày nay với sự ra đời của các phương tiện chấn đoán hình ảnh tiên tiến, các nhà nghiên cứu có thế khám và đo đạc chính xác cấu trúc bên trong sẹo bọng thấm đế đánh giá mối liên quan giữa lâm sàng và chức năng của sẹo bọng. Nhằm khảo sát sự tiến triến về hình thái của bọng thấm giữa hai
phương pháp phẫu thuật cắt bè có ghép màng ối và phẫu thuật cắt bè áp MMC, chúng tôi tiến hành đề tài “Đánh giá tình trạng sẹo bọng của phẫu thuật cắt bè có ghép màng ối và cắt bè áp Mitomycin C điều trị tăng nhãn áp tái phát sau mổ lỗ rò” với hai mục tiêu:
1. Đánh giá tình trạng sẹo bọng của phẫu thuật cắt bè có ghép màng ối và cắt bè áp Mitomycin C đế điều trị tăng nhãn áp tái phát.
2. Phân tích mối liên quan giữa nhãn áp và tình trạng sẹo bọng trên OCT của hai phương pháp phẫu thuật cắt bè có ghép màng ối và cắt bè áp Mitomycin C.

Nguồn: https://luanvanyhoc.com

Leave a Comment