ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE SẢN PHỤ VÀ THAI NHI TRONG GIẢM ĐAU CHUYỂN DẠ
Mục đích: Nghiên cứu nhằm đánh giá những tác động trên tình trạng sức khỏe sản phụ của phương pháp gây tê ngoài màng cứng để giảm đau trong chuyển dạ.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiêncó nhóm chứng. 140 sản phụ vào giai đoạn chuyển dạ hoạt động và được chia làm 2 nhóm: -Nhóm 1 là nhóm chứng, không áp dụng phương pháp giảm đau. – Nhóm 2 các sản phụ được gây tê ngoài màng cứng để giảm đau với Bupivacaine và Fentanyl. Mạch, huyết áp, nhịp thở của sản phụ và tim thai theo dõi trướcvà sau khi tiêm thuốc giảm đau. Ngoài ra, theo dõiliên tục các thông số của quá trình chuyển dạ, tình trạng sức khỏe sản phụ và trẻ sơ sinh.
Kết quả Nhóm 2: Chỉ số Apgar thời điểm 1 phút nhỏ hơn 7 (p<0,05), sau đó dần trở về trị số bình thường. Nhịp tim thai giảm có ý nghĩa trong 20 phút đầu saukhi tiêm thuốc tê và thuốc giảm đau. Tỷ lệ các biến chứng theo thứ tự của nhóm 1/ nhóm 2: tụt huyết áp: 1,4 /2,9%, lạnh run: 0 / 4,3%, buồn nôn, nôn: 0/1,4%, đau đầu: 1,4 / 2,9%, đau lưng: 4,3 / 8,6%, tiểu khó, bí tiểu: 2,9/ 5,7%. Không ghi nhận các tác dụng phụ, tai biến và các biến chứng quan trọng.
Kết luận: Giảm đau trong chuyển dạ bằng phương pháp gây tê ngoài màng cứng với sự phối hợp Bupivacaine với Fentanyl an toàn, hiệu quả và nên được tiến hành ở những cơ sở y tế có trang bị đầy đủcác phương tiện theo dõi sát tình trạng sức khỏe thai nhi và sản phụ.
Phương pháp GTNMC đã được áp dụng rộng rãi từ lâu trong chuyên ngành gây mê hồi sức. GTNMC có luồn catheter đã được Curbelo thực hiện công trình nghiên cứu đầu tiên vào năm 1949 tại Cuba.(6)Dùng phương pháp này để giảm đau trong chuyển dạ cũng đã có từ hơn 50 năm về trước. Năm 1956, Hingson đã thực hiện những công trình có hệ thống đầu tiên về các phương pháp giảm đau trong chuyển dạ(1). Kể từ đó các quan điểm về giảm đau trong chuyển dạ ngày càng được củng cố vững chắc dựa trên tác dụng của thuốc tê, các ưu điểm của thuốc tê và quá trình chuyển dạ.
Ngày nay, việc ứng dụng GTNMC để giảm đau trong sản khoa và ngoại khoa ngày càng phát triển là nhờ vào: sự phát triển công nghệ sản xuất các dụng cụ, vật liệu mới như máy bơm tiêm điện, các bộ dụng cụ gây tê dùng một lần, catheter bằng vật liệu sinh tổng hợp có thể để lại lâu trong cơ thể… Công nghệ dược phẩm, dược liệu phát triển cho phép tổng hợp các thuốc tê, thuốc giảm đau đáp ứng nhu cầu giảm đau tăng, kéo dài mà ít gây ra các tác dụng phụ. Cùng với sự hiểu biết sâu sắc hơn về giải phẫu, sinh lý bệnh của quá trình dẫn truyền và điều khiển đau, các cơ chế về “mở cửa” các kênh ion và cơ chế gắn protein G của các thụ thể đau, các opioids(2)…
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất