Đánh giá tỷ lệ mù loà và hiệu quả của can thiệp mổ đục thể thuỷ tinh ở cộng đồng tỉnh Bắc Ninh

Đánh giá tỷ lệ mù loà và hiệu quả của can thiệp mổ đục thể thuỷ tinh ở cộng đồng tỉnh Bắc Ninh

Mù loà là một vấn đề sức khoẻ quan trọng được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nhiều tổ chức quốc tế đặc biệt quan tâm. Tháng 9/ 2007, WHO ước tính thế giới có 45 triệu người mù, trong đó 23 triệu có thể phòng và chữa được và 269 triệu người có thị lực thấp (từ ĐNT 3 m đến dưới 3/10). Năm  1999  WHO  đưa  ra  mục  tiêu  “  Thị  giác 2020” nhằm thanh toán loại mù loà có thể phòng tránh được vào năm 2020 trên toàn cầu. Năm 2000, Bộ Y tế Việt Nam đã ký cam kết với WHO để thực hiện sáng kiến này. Vì vậy cần có nghiên cứu để đánh giá tình hình mù loà và xây dựng kế hoạch can thiệp của từng tỉnh thành nhằm đạt được mục tiêu “ Thị giác 2020” ở nước ta.

Mục tiêu nghiên cứu:

1. Xác định tỷ lệ mù loà, các nguyên  nhân chính gây mù.

2. Đánh giá hiệu quả và trở ngại của  can thiệp mổ ĐTTT ở cộng đồng.

II. ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu: là người từ 50 tuổi trở lên , đang sống ở nơi điều tra ít nhất từ 6 tháng trở lên.

2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu  cắt ngang mô tả, ngẫu nhiên.

3. Cỡ  mẫu:  1800  người  ở  30  điểm  khám (cluster).

4. Chọn mẫu: Lập danh sách các xã trong tỉnh kèm dân số, cộng dồn số dân. Lấy tổng  số dân của tỉnh chia cho 30 mẫu chùm để  tìm khoảng cách mẫu, máy vi tính chọn ngẫu nghiên 1 số, sau đó cộng thêm số khoảng  cách mẫu để tìm ra người cần được ngẫu  nhiên khám sẽ ở trong số dân  của  xã,  phường  nào,  từ  đó  xác  định  xã, phường cần được điều tra. Tại mỗi xã phường đó,

dân số đã được phân chia theo danh sách địa bàn dân cư (thường mỗi địa bàn khoảng 500 dân), tiến hành bắt thăm ngẫu nghiên một cụm địa bàn dân cư để lập danh sách tất cả những người từ 50 tuổi trở lên hiện sống tại cụm dân cư đó đã 6 tháng nay và báo trước ngày khám để dân chờ. Đúng ngày hẹn, đoàn điều tra đến địa bàn dân cư đã bắt thăm, được cán bộ phụ trách cụm dân số đó và y tá thôn bản dẫn đến đầu cụm dân cư rồi bắt đầu khám từ nhà bên trái trước, nhà bên phải sau theo nguyên tắc “nhà liền nhà”. Tại mỗi nhà, phải khám tất cả những người trên 50 tuổi có hộ khẩu tại đó, dựa theo danh sách đã được cán bộ phụ trách dân số lập trước đó. Nếu ai đi vắng phải mời về hoặc hẹn cuối ngày đến khám lại. Nếu đi vắng xa không thể về được hoặc từ chối khám, phải lập phiếu vắng nhà hoặc từ chối khám, nhưng tổng số các phiếu này càng ít càng tốt và không được phép có quá 6 phiếu tại 1 cụm điều tra.

5. Nội dung điều tra: mỗi người được thử thị lực với kính đang đeo, rồi với kính lỗ.  Bác sỹ khám mắt, soi ánh đồng tử, soi đáy  mắt để tìm nguyên nhân gây giảm thị lực  dưới 3/10. Mỗi bệnh nhân bị ĐTTT có thị lực  < 1/10 được hỏi ghi để tìm hiểu lý do khiến họ không muốn hoặc không thể đi  khám chữa bệnh mắt. Mỗi bệnh nhân đã mổ ĐTTT được hỏi ghi về năm mổ, nơi mổ,  được mổ miễn phí hay không, và nguyên nhân không sử dụng kính. Đoàn khám gồm 2 bác sỹ chuyên khoa Mắt và 4 y tá nhãn khoa thử thị lực, thử kính lỗ đã được tập huấn thống nhất kỹ thuật và tiêu chuẩn đánh giá.

Đánh giá tỷ lệ mù lòa và hiệu quả mổ đục thể thủy tinh là cần thiết để lập kế hoạch phòng chống mù loà. Mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệ mù, nguyên nhân gây mù. (2) Đánh giá hiệu quả và trở ngại đối với mổ đục thể thủy tinh (ĐTTT) tại cộng đồng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang trên 1.740 người từ 50 tuổi trở lên. Kết quả: tỷ lệ mù 2 mắt ở người từ 50 tuổi trở lên là 4,79 ± 1,18%, mù 1 mắt là 8,88 ± 1,26%. Các nguyên nhân chính gây mù là ĐTTT (49,0%), bệnh phần sau nhãn cầu (15,4%), mắt hột (12,5%), teo nhãn cầu (7,7%), sẹo giác mạc (6,7%) và glôcôm (5,8%). Tỷ lệ ĐTTT gây mù 2 mắt là 1,65%, gây mù 1 mắt là 5,75%. Tỷ lệ quặm ở 1 mắt và 2 mắt là 7,8%, tỷ lệ lông xiêu (≤ 3 lông) là 2,4%, Tỷ lệ mộng 1 và 2 mắt là 27,0%. Tỷ lệ người được mổ ĐTTT 2 mắt là 1,46%, mổ 1 mắt là 2,63%. Tỷ lệ bao phủ phẫu thuật 65,8% (theo người), 37,9% (theo mắt). Tỷ lệ thành công của phẫu thuật là 75,8%. Các trở ngại bệnh nhân đi mổ là nghèo (24,3%), quá già (21,4%), không biết bệnh (20,0%), sợ mổ không sáng (5,7%). Kết luận: nguyên nhân gây mù chủ yếu là ĐTTTvà mắt hột. Tỷ lệ bao phủ phẫu thuật khá tốt nhưng tỷ lệ thành công chưa cao. Cần đẩy mạnh mổ ĐTTT và mổ quặm để nhanh chóng hạ thấp tỷ lệ mù loà.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment