Đánh giá vai trò của dinh dưỡng và chăm sóc tới các biến chứng sau mổ viêm phúc mạc tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức
Đánh giá vai trò của dinh dưỡng và chăm sóc tới các biến chứng sau mổ viêm phúc mạc tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức.Viêm phúc mạc là tình trạng viêm của lá phúc mạc do trong xoang bụng có mủ, giả mạc, phân, vi khuẩn, dịch tiêu hóa, dịch mật, nước tiểu. Viêm phúc mạc là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp, là nguyên nhân dẫn đến tử vong chủ yếu trong cấp cứu tiêu hóa. Lá phúc mạc có diện tích rộng, sấp sỉ diện tích da nên khả năng hấp thu là rất lớn, dễ gây nên tình trạng shock và nhiễm độc. Hơn nữa, do có nhu động ruột, các chất độc rất nhanh chóng lan ra khắp ổ bụng, càng làm cho quá trình nhiễm độc xảy ra nhanh hơn. Viêm phuc mạc do thủng các tạng đường tiêu hóa thường do các loại vi khuẩn có độc tính rất mạnh, và đây là giai đoạn cuối của các bệnh nhiễm khuẩn trong ổ bụng nên viêm phúc mạc là một cấp cứu nguy hiểm, cần được chẩn đoán, xử trí đúng và kịp thời.
Tất cả các ca viêm phúc mạc do thủng tạng rỗng đều cần can thiệp ngoại khoa đó là xử trí tổn thương và tiến hành lau rửa, dẫn lưu mới có thể thanh toán được hết tình trạng nhiễm trùng trong ổ bụng. Các trường hợp đến sớm, được chẩn đoán, xử trí đúng và kịp thời thì khả năng hồi phục khá nhanh, ít xảy ra các biến chứng sau mổ, đặc biệt ở những bệnh nhân trẻ tuổi, thể trạng tốt. Còn các trường hợp đến muộn, tình trạng nặng, sau khi được phẫu thuật giải quyết nguyên nhân và làm sach, dẫn lưu ổ bụng, quá trình hồi phục còn chậm và hay xảy ra các biến chứng sau mổ: nhiễm trùng vết mổ, nhiễm trùng chân dẫn lưu, biến chứng hô hấp, loét do tì đè,…
Nguyên nhân có thể do tình trạng viêm nặng của lá phúc mạc, làm ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động của cơ thể: ảnh hưởng đến huyết động, rối loạn nước, điện giải, tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc, cũng như dinh dưỡng của bệnh nhân còn chưa đảm bảo, hiểu biết của bệnh nhân và người nhà còn hạn chế, nguy cơ xảy ra các biến chứng càng cao.
Sau khi được phẫu thuật giải quyết nguyên nhân, bệnh nhân được nằm tại viện điều trị trong những ngày đầu sau mổ. Thông thường, sau khi bệnh nhân có lại nhu động ruột, tỉnh táo và không có thêm biến chứng sẽ được cho ra viện điều trị ở tuyến dưới hay tại gia đình. Trong thời gian nằm viện, vai trò của người điều dưỡng là cực kỳ quang trọng, bởi điều dưỡng chính là người tiếp xúc 24/24h với bệnh nhân, theo dõi tình trạng toàn thân, từ các dấu hiệu sống, ý thức, tình trạng vết mổ, dẫn lưu,… đến chăm sóc toàn diện cho người bệnh: thực hiện thuốc, vệ sinh, dinh dưỡng, cũng như hướng dẫn bệnh nhân vận động đi lại, phục hồi chức năng. Người điều dưỡng vừa chăm sóc toàn diện cho bệnh nhân vừa phải theo dõi sát để phòng và phát hiện sớm các biến chứng có thể xảy ra trên bệnh nhân, có biện pháp xử trí kịp thời. Với các trường hợp xảy ra biến chứng, vai trò của công tác điều dưỡng lại càng quan trọng, bởi ngoài các hoạt động như đối với các bệnh nhân sau mổ thông thường, cần phải có các hoạt động chăm sóc, hướng dẫn cụ thể cho bệnh nhân các biện pháp phòng không để biến chứng nặng thêm, không xuất hiện các biến chứng khác và cách chăm sóc biến chứng hiện có. Có như vậy mới giúp tình trạng của bệnh nhân tốt lên, không để lại những di chứng về lâu dài.
Vì các lí do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Đánh giá vai trò của dinh dưỡng và chăm sóc tới các biến chứng sau mổ viêm phúc mạc tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức” nhằm mục tiêu:
1. Đánh giá vai trò của quá trình chăm sóc đối với các biến chứng sau mổ viêm phúc mạc
2. Nhận xét vai trò của dinh dưỡng đối với các biến chứng sau mổ viêm phúc mạc.
Tài liệu tham khảo Đánh giá vai trò của dinh dưỡng và chăm sóc tới các biến chứng sau mổ viêm phúc mạc tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức
Tài liệu tiếng việt
1. Trịnh Hồng Sơn, Nguyễn Minh Trọng, Nguyễn Tiến Quyết (2006) “Các nguyên nhân gây viêm phúc mạc và kết quả điều trị phẫu thuật viêm phúc mạc tại bệnh viện Việt Đức 2000 – 2004” – Y học thực hành 2006, số 11 tập 558, trang 60 – 65.
2. Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Tiến Quyết, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Phương Hồng, Nguyến Đức Tiến, Nguyến Thiều Hoa, Tô Thi Điền và cộng sự(1995) – “Tình hình nhiễm khuẩn vết mổ trong một năm tại bệnh viện Việt Đức (8/1992 – 7/1993)” – Tạp chí ngoại khoa 1995, số 9, trang 354 -359.
3. Đặng Đình Hùng (1998) – “Góp phần nghiên cứu nguyên nhân, chẩn đoán, xử trí viêm phúc mạc sau mổ bụng tại khoa ngoại bệnh viện Saint Paul”, Luận văn thạc sỹ y học – Đại học Y Hà Nội.
4. Phạm Đức Huấn, Nguyễn Anh Tuấn, Trịnh Văn Tuấn, Đỗ Đức Vân (1995) – “Một số nhận xét về lâm sàng và điều trị vỡ tá tràng”, tạp chí ngoại khoa 1995, số 9, trang 157 – 163.
5. Nguyễn Đức Ninh, Đỗ Kim Sơn (1990) – “Biến chứng sớm sau phẫu thuật bụng” – NXB Y học 1990, trang 3 – 40.
6. Lê Bình (2001) – “Góp phần nghiên cứu chẩn đoán và xử trí những biến chứng sớm sau cắt đoạn dạ dày tại bệnh viện Việt Đức – Hà Nội (từ 1995 – 1999)” – Luận văn tốt nghiệp bác sỹ chuyên khoa II – Đại học Y Hà Nội.
7. Nguyễn Đình Hối (1992) – “Viêm phúc mạc – bệnh học ngoại khoa đường tiêu hóa” – NXB Y học 1992, trang 66 – 102.
8. Nguyễn Cường Thịnh, Phạm Duy Hiển, Nghiêm Quốc Cường, Nguyễn Xuân Kiên (1995) – “Nhận xét qua 163 trường hợp thủng ổ loét dạ dày tá tràng” – Tạp chí ngoại khoa 1995, số 9.
9. Lê Ngọc Quỳnh, Trịnh Tùng, Lê Minh Sơn (1996) – “ Nhận xét 719 bệnh nhân viêm phúc mạc trong 7 năm (1988 – 1994) tại khoa ngoại bệnh viện Saint Paul” – Y học thực hành 1996, số 2, tập 330, trang 6 – 8.
10. Nguyễn Đức Ninh (1999) – “Phẫu thuật ống tiêu hóa” – NXB Y học 1999, trang 62 – 101.
11. Phạm Duy Hiển, Nguyễn Xuân Kiên (2000) – “Nhận xét tai biến và biến chứng của phẫu thuật điều trị ung thư dạ dày” – Y học thực hành, tháng 6 năm 2000, trang 24 – 26.
12. Nguyễn Khoa Hinh (1982) – “Biến chứng sớm trong và sau mổ phẫu thuật cắt dạ dày ở bệnh viện Huế” – Tạp chí ngoại khoa tháng 4 năm 1982, trang 97 – 101.
13. Trương Hữu Tố (1987) – “Biến chứng phẫu thuật – Bệnh học ngoại đại cương” – NXB Y học 1987, trang 142 – 154.
14. Đồng Sỹ Thuyên (1988) – “Những tai biến và biến chứng sau mổ – Tai biến và biến chứng phẫu thuật” – Học viện Quân Y 1988, trang 9 – 47.
15. Bùi Thanh Hải, Phạm Duy Hiển – “Tắc ruột sau mổ, bàn thêm về nguyên nhân và chỉ định điều trị (1985 -1994)” – Tạp chí ngoại khoa 1995, số 9, trang 115 – 124.
16. Như Thị Ngọc Liên (2009) – “Khảo sát thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến loét do tỳ đè trên bệnh nhân tại khoa điều trị tích cực – Viện các bệnh truyền nhiễm và nhiệt đới trung ương” – Luận văn tốt nghiệp cử nhân điều dưỡng 2009 – Trường Đại Học Y Hà Nội.
17. Lương Tất Đồng (1994) – “Kết quả điều trị thủng ổ loét dạ dày tá tràng tại bệnh viện đa khoa Thái Nguyên” – Luận văn tốt nghiệp bác sỹ chuyên khoa I, 1994.
18. Lương Ngọc Mai (1986) – “Sơ kết tình hình nhiễm khuẩn sau mổ từ tháng 1/1986 đến 7/1986” – Tạp chí Ngoại khoa, số 5, tập 14, trang 10 – 13.
19. Vũ Duy Thanh, Nguyễn Văn Kỳ (1984) – “Tổng quan 1000 trường hợp mổ loét dạ dày tá tràng trong 15 năm và một số nhận xét” – Tạp chí Y học Việt Nam 1984, số 3, tập 122, trang 5 – 11.
20. Nguyễn Đình Hối, Nguyễn Anh Tuấn (1982) – “Nguyên nhân tử vong của phẫu thuật cắt đoạn dạ dày do loét dạ dày tá tràng” – Tạp chí ngoại khoa 1982, số 2, tập 9, trang 33 – 39.
21. Hà Văn Quyết, Phạm Đức Huấn (2013) – “Bài giảng bệnh học ngoại khoa” – NXB Y học, trang 96 – 107.
22. Nguyễn Tấn Cường (2009) – “Bài giảng điều dưỡng ngoại khoa tập 1” – NXB Giáo dục, trang 200 – 210.
23. Phạm Công Chương, Nguyễn Đức Chính, Phạm Hải Bằng – “Một số nhận xét về viêm phúc mạc sau mổ trong một năm tại bệnh viện Việt đức” – Ngoại khoa (1995), số 9, trang 183 – 186.
24. Trịnh Hồng Sơn, Nguyễn Tiến Quyết, Trần Thị Lan Phương, Nguyễn Minh Trọng, Nguyễn Trung Liêm, Nguyễn Hoài Bắc, Phạm Hiếu Tâm – “Chẩn đoán và điều trị viêm phúc mạc nhiễm khuẩn tiên phát tại bệnh viện Việt Đức (1/2000 – 12/2004)” – Tạp chỉ Y học thực hành (2005), số 6 tập 514, trang 56 – 61.
25. Lê Ngọc Quỳnh, Trịn Tùng, Lê Minh Sơn – “Nhận xét về 44 bệnh nhân bị viêm phúc mạc sau mổ, được mổ sớm lại tại khoa ngoại bệnh viện Saint Paul (1987 – 1994)” – Tạp chí Y học thực hành (1997), số 1 tập 330, trang 9 – 11.
26. Trịnh Hồng Sơn, Lê Tư Hoàng, Dương Trọng Hiền, Phạm Văn Bình, Đỗ Hoàng Tuấn – “Đóng bụng một lớp toàn thể hay một lớp hở da trong viêm phúc mạc” – Tạp chí Y học thực hành (2005), số 7 tập 515, trang 33 – 37.
27. Trịnh Hồng Sơn, Nguyễn Minh Trọng, Nguyễn Tiến Quyết – “Các nguyên nhân gây viêm phúc mạc và kết quả điều trị phẫu thuật viêm phúc mạc tại bệnh viện Việt Đức giai đoạn 2000 – 2004” – Tạp chí Y học thực hành (2006), số 11, tập 558, trang 60 – 65.
28. Trịnh Hồng Sơn, Nguyễn Minh Trọng, Phạm Hiếu Tâm, Phạm Gia Anh, nguyễn Hoài Bắc, nguyễn Trung Liêm, Nguyễn Tiến Quyết – “Chẩn đoán và xử trí viêm phúc mạc do thủng ruột non bệnh lý tại bệnh viện Việt Đức trong 5 năm (1/1/2000 – 31/12/2004)” – Tạp chí y học thực hành (2005), số 7, tập 515, trang 25 – 31.
29. Trịnh Hồng Sơn, Nguyễn Tiến Quyết, Trần Thị Lan Phương, Nguyễn Minh Trọng, Nguyễn Trung Liêm, Nguyễn Hoài Bắc, Phạm Hiếu Tâm