Đánh giá vai trò của hbalc đối với việc kiểm soát / l tăng đường huyết ở bệnh nhân cấp cứu

Đánh giá vai trò của hbalc đối với việc kiểm soát / l tăng đường huyết ở bệnh nhân cấp cứu

Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành nhằm đánh giá vai trò của HbAlc ở bệnh nhân khi nhập viện cấp cứu có tăng đường huyết (TĐH) với tiêu chuẩn đường huyết (ĐH) >11,1 mmol/1, chưa được phát hiện và điều trị đái tháo đường trước đó. Nghiên cứu được thực hiện ở 38 BN vào cấp cứu có TĐH được đo HbAlc lúc nhập viện. Kết quả: Tuổi trung bình 60,2 ± 14,43, gặp chủ yếu các nhóm BN : TBMMN 28,9%, nhiễm khuản 42,1%, hô hấp 13,2%, tim mạch 7,9%. BN TĐH được chia 2 nhóm theo HbAlc, nhóm 1 : HbAlc < 8% có 20 BN (52,64%), nhốm 2 : HbAlc > 8% có 18 BN (47,36%). Mức ĐH : Tăng vừa (11 – 16,6) 7 BN (18,4%), tăng cao (16,7 – 22,1) 12 BN (32,6%), tăng rất cao (> 22,2) 19 BN (50%). Với mục tiêu kiểm soái tốt ĐH < 8,25 mmol/1 (150 mg/dl) theo phác đồ kiểm soát TĐH thường quy đạt tỉ lệ kiểm soát thành công chung là 55,3 % tổng số bệnh nhân. Trong đó : Nhóm 1: đạt tỷ lệ 16/20 Bn (80%), nhóm 2 : đạt tỷ lệ : 5/18 BN (27,8%) (với p <0,01). Kết luận: BN vào cấp cứu có tình trạng tăng ĐH nếu HbAlc cao sẽ là một thông số tiên lượng khả năng kiểm soát ĐH khó khăn, cần phải sớm đưa ra một chiến lược kiểm soát ĐH với sự tham ra của nhiều liệu pháp kiểm soát TĐH tích cực cần thiết góp phần ổn định tình trạng bệnh lý cấp cứu nguyên nhân, giúp làm giảm tỷ lệ tử vong ở BN cấp cứu có TĐH.
1.    Đặt vấn đề
Tình trạng tăng đường huyết (TĐH) ảnh hưởng trực tiếp đến diễn biến lâm sàng và liên lượng của bệnh nhân (BN) cấp cứu, đồng thời TĐH còn là một yếu tố quan trọng làm tăng tỉ lệ tử vonạ, kéo dài thời gian nằm viện. Các tác động bất lợi của TĐH có thể được cải thiện nếu như đường huyết (ĐH) được kiểm soát tốt [10]. Ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh mối liên quan giữa kiểm soát chặt mức ĐH với việc cải thiện tiên lượng của BN cấp cứu. Bệnh nhân vào cấp cứu được phát hiện có TĐH thường do BN đã có đái tháo đường (ĐTĐ) từ trước đó nhưng chưa được phát hiện hoặc BN có tình trạng TĐH do stress. Nhiẻu nghiên cứu đã chỉ ra rằng TĐH do bất kỳ nguyên nhân nào, tình trạng TĐH tồn tại dài hay ngắn đều gây ra những tác động xấu cho tiến triển và tiên lượng của người bệnh. Như vậy, trên thực tế yếu tố đường huyết và tiên lượng ở BN cấp cứu đã có một mồi quan hệ chặt chẽ? phải chăng ĐH là yếu tố nguy cơ quan trọng và độc lập mang lại một tiên lượng xấu hơn và làm tăng lí lệ tử vong ở BN cấp cứu?. Những yếu tô’ nào ảnh hưởng đến việc kiểm soát tình trạng ĐH? HbAlc và mức đường huyết lúc nhập viện có mối quan hệ như thế nào? mức HbAlc có tác động như thế nào trong quá trình kiểm soát TĐH ở BN cấp cứu?. Để góp phần trả lời những câu hỏi này chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với mục tiêu:
Đánh giá vai trò, ỷ nghĩa của chỉ số HbAlC đối với quá trình kiểm soát tăng đường huyết được phát hiện khi bệnh nhân, nhập viện cấp cínt
2.    Đối.tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1.    Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện tại Khoa cấp cứu bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1 -2005 đến tháng 10-2005 gồm các bệnh nhân có đủ các tiêu chuẩn sau:
–    Nồng độ ĐH TM khi vào viện >11.1 mmol/1 (200 mg/dl).
–    Chưa được chẩn đoán hoặc điều trị ĐTĐ trước đó
Loại trừ các bệnh nhân được chẩn đoán tọan xêton hay TALTT do đái tháo đường, các bệnh lý nội khoa có liên qụan đến nội tiết như: u tuỷ thượng thận, hội chứng Cushing hay đang dùng corticoid dài ngày… và các bệnh nội khoa khác như viêm tuỵ cấp, bệnh lý gan mật cấp và mạn tính.
2.2.    Phương pháp nghiên cứu
Bệnh nhân vào khoa cấp cứu được làm một mẫu xét nghiệm đường huyết nếu có tình trạng TĐH (ĐH > 11,1 mmol/1) BN được làm ngay xét nghiệm định lượng nồng độ HbAu.. Các BN trong nghiên cứu sẽ được chia làm 2 nhóm ngẫu nhiên. Nhóm l: nhóm BN TĐH có HbAlc < 8%. Nhóm 2: Nhóm BN TĐHcó HbAlc >8%.
Các BN của cả 2 nhóm này được được sử dụng phác đồ kiểm    soát ĐH    như    thường    quy, lấy
tiêu chí mức ĐH được kiểm soat tốt là < 8,25 mmol/1.
Các biện pháp điều trị phối hợp khác bao gồm : bồi phụ nước và điện giải đặc biệt là điều chỉnh kali và natri, dinh dưỡng liệu pháp và điểu trị bệnh lý nguyên nhân theo phác đồ chung.
2.3.    Theo dõi diễn biến ĐH trong quá trình điểu trị
Đo nồng độ ĐH tĩnh mạch: định kỳ ngày 3 lần 6h -14h – 22h trùng với các thời    điểm theo
dõi ĐH mao mạch (MM) để so sánh.
Theo dõi định kỳ ĐH MM: 2 giờ/lần cho đến khi kết thúc quá trình nghiên cứu.
Các xét nghiệm về thăng bằng thể dịch: Làm xét nghiệm điện giải đồ máu (K Na+, C1), đo áp lực thẩm thấu máu hàng ngày
3.    Kết quả nghiên cứu
3.1.    Kết quả chung:
Bệnh nhân: Nghiên cứu được thực hiện tại Khoa cấp cứu bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1- 2005 đến tháng 10-2005 gồm 38 bệnh nhân có đủ các tiêu chuẩn lựa chọn vào nghiên cứu. Tuổi giới: Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu là : 60,2 ± 14,43. Nhóm bệnh nhân có tuổi trên 60 chiếm tỉ lệ (60,6%), không có sự khác biệt về tỉ lệ giữa giới nam và giới nữ ở các bệnh nhân nghiên cứu.


Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment