ĐÁNH GIÁ VỀ MẶT NHÂN TRẮC TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH SỐNG Ở HÀ NỘI

ĐÁNH GIÁ VỀ MẶT NHÂN TRẮC TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH SỐNG Ở HÀ NỘI

Việc xác định các giá trị sinh học nói chung, nhất là các giá trị nhân trắc là một công việc quan trọng và cần được tiến hành thường quy khoảng 10 năm 1 lần [1, 4, 5] nhằm:

Làm cơ sở đánh giá hình thái, thể lực và dinh dưỡng của các đối tượng nghiên cứu trong quần thể, từ đó có hướng quan tâm và lập kế hoạch sát thực để cải thiện tình trạng dinh dưỡng, nâng cao thể lực, chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng được nghiên cứu; Tìm hiểu sự khác biệt giữa các nhóm đối tượng ở các vùng miền; So sánh giữa các nhóm tuổi tìm ra qui luật của sự phát triển; Kịp thời cập nhật các các kích thước và chỉ số nhân trắc để áp dụng trong nhiều lĩnh vực như: khám tuyển quân, tuyển sinh, sắp xếp cán bộ, bổ sung các số đo nhân trắc áp dụng trong thiết kế kích cỡ máy móc, dụng cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt v.v…

Ở Hà Nội, trong khoảng 10 năm trở lại đây đã có nhiều công trình điều tra một số giá trị sinh học với những quần thể trên phạm vi nhỏ hẹp (cấp xã, phường hay quận, huyện) hoặc thực hiện ở những đối tượng là học sinh, hay người lớn tuổi [2, 3]. Nhất là từ 2 năm nay, Hà Nội đã được mở rộng địa giới hành chính, bao gồm Hà Nội, một phần tỉnh  Hòa Bình, một phần tỉnh Vĩnh Phúc và toàn  bộ tỉnh Hà Tây trước kia, theo Nghị quyết  số  15/2008/QH12 của Quốc hội. Do vậy, những nghiên cứu trên chưa đại diện đầy đủ  cho người Hà Nội với đầy đủ thành phần, tuổi, giới, khu vực. Chính vì vậy, việc tiến hành đề tài cấp thành phố về nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Hà Nội” là rất cần thiết và đã được thực hiện năm 2010. Báo cáo này là một  phần trong những nội dung nghiên cứu của đề tài trên nhằm mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng người trưởng thành sống ở Hà Nội theo tuổi, giới dựa trên chỉ số khối cơ thể (BMI).

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

1. Số lượng đối tượng nghiên cứu: gồm 8780 đối tượng, là những người bình thường về mặt nhân trắc (không có dị dạng, dị tật…) và hợp tác tốt khi thu  thập,  trong đó: 3728 nam và 5052 nữ,  thuộc 4 quận huyện được lựa chọn nghiên cứu là: Hoàn Kiếm, Đống Đa, Mỹ Đức và Ba Vì.

2. Phương pháp

Nội dung

Các kích thước, mốc đo và kỹ thuật đo được xác định và thực hiện theo đúng yêu cầu

thước nhân trắc, và theo sát được diễn biến từ giai đoạn sau dậy thì đến tuổi hết lớn một cách chính xác. Từ 25 tuổi trở đi: 5 – 10 năm cho một nhóm tuổi (25 – 29; 30 – 39; 40 – 49… ≥  60) để thống nhất với cách phân chia của nhiều nghiên cứu [4].

Sau  khi  được  xử  lý  thô  nhằm  loại  bỏ những số bất thường, số liệu được phân tích và xử lý bằng các phần mềm Epidata 3, SPSS 16.0 và STATA 8.0.

Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người trưởng thành sống ở Hà Nội dựa trên chỉ số khối cơ thể (BMI). Kết quả qua nghiên cứu 8780 người (3728 nam và 5052 nữ) tuổi trên 16 thuộc 4 quận, huyện Hà Nội cho thấy: BMI tăng dần theo tuổi ở cả hai giới và nhìn chung đạt cao nhất ở nhóm tuổi 50 – 59; sau tuổi này BMI ở cả 2 giới giảm đi khá rõ nét. Tình trạng dinh dưỡng người Hà Nội khá tốt, lấy nhóm tuổi 30 – 39 (đại diện cho người trưởng thành), ở nam tỷ lệ thiếu cân: 15,1% và tỷ lệ thừa cân, béo phì: 20,3%; ở nữ các tỷ lệ tương ứng là: 14,6 và 18,0% (theo thang phân loại BMI cho người châu Á). Dinh dưỡng ở nội thành tốt hơn hẳn so với ngoại thành ở mọi nhóm tuổi (p < 0,001). Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn (gầy) của người Hà Nội năm 2010 thuộc loại trung bình so với thế giới.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment