ĐặT THể THUỷ TINH NHÂN TạO THì HAI HậU PHòNG ởTRẻ EM
ĐặT THể THUỷ TINH NHÂN TạO THì HAI HậU PHòNG ởTRẻ EM
Lê Thị Kim Xuân – Bệnh viện Mắt TW
TóM TắT
Đánh giá kết quả của phẫu thuật và nghiên cứu các đặc điểm về kĩ thuật của phẫu thuật dặt thểthủy tinh nhân tạo thì hai hậu phòng ở trẻ em. áp dụng nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 38 mắt ở 22 trẻ đã mổ lấy thể thủy tinh được phẫu thuật đặt thể thủy tinh nhân tạo hậu phòng thì hai, tuổi từ 1- 15 tại khoa Mắt trẻ em bệnh viện Mắt Trung ương, theo dõi trong 2 năm.
Kết quả: 38 mắt được đặt thể thủy tinh nhân tạo hậu phòng trong đó 27 mắt có kèm cắt bao sau, cắt dịch kính trước. Kết quả thị lực sau theo dõi lâu dài đạt được từ trên 0,5 là 31,6%, từ 0.1 -0.4 đạt 62,3% và 2 mắt có thị lực <0,1 chiếm 5,2%. Biến chứng không đáng kể chủ yếu được điều trị nội khoa
ĐặT VấN Đề
Sự tiến bộ về kĩ thuật và mẫu mã của thể thủy tinh nhân tạo (TTTNT) đã cho phép đặt được trên mắt của trẻ nhỏ một cách an toàn và ít biến chứng [1]. Tuy nhiên đặt TTTNT ở trẻ em không phải khi nào cũng thực hiện được ngay trong phẫu thuật lần đầu. Trẻ nhỏ dưới 5 tuổi thường chỉ được mổ lấy thể thuỷ tinh (TTT) sau đó đeo kính gọng, một số trẻ thì do có biến cố trong khi phẫu thuật không thể đặt TTTNT thì một được. Kính tiếp xúc có nhiều bất cập ở trẻ em như khó thích nghi, giá thành đắt do phải thay kính thường xuyên; dễ tổn thương giác mạc, ở nước ta chưa có loại kính tiếp xúc này. Đeo kính cũng không thích hợp đối với đục thể thủy tinh một mắt do phóng đại hình ảnh ở hai mắt không đều. Đặt TTTNT thì hai vào hậu phòng hoặc rãnh thể mi tựa vào bao sau trên những bệnh nhân còn bao sau là cách lựa chọn tốt nhất để điều chỉnh quang học trong những trường hợp này[1][2].
Đề tài lần đầu tiên được nghiên cứu ở Việt nam nhằm các mục tiêu sau: Đánh giá kết quả của phẫu thuật dặt TTTNT thì hai hậu phòng ở trẻ em và các đặc điểm về kĩ thuật của phẫu thuật
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất