ĐAU MẠN TÍNH VÙNG BẸN ĐÙI SAU MỔ THOÁT VỊ BẸN
Nhiều thập niên qua, khi đánh giá một phương pháp phẫu thuật điều trị bệnh thoát vị bẹn, người ta thường chỉ nghĩ tới vấn đề tái phát sau mổ. Từ sau khi mảnh ghép được dùng trong điều trị thoát vị bẹn, tỷ lệ tái phát sau mổ còn rất thấp, khoảng 1%(161013). Tuy nhiên, khi vấn đề’ tái phát sau mổ gần như được giải quyết thì đau mạn tính vùng bẹn sau mổ đặt mảnh ghép lại dần nổi lên thành một vân đề mới khá nổi cộm, có thể ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống bệnh nhân sau mổ. Một số’ tác giả cho rằng đặt mảnh ghép tiền phúc mạc qua nội soi (TEP hay TAPP) ít gây đau mạn tính vùng bẹn sau mổ hơn kỹ thuật Lichtenstein(2’5). Ớ Việt Nam, phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn bằng mảnh ghép phổ biến nhất là kỹ thuật Lichtenstein. Vương Thừa Đức(13) trên 115 ca mổ theo kỹ thuật Lichtenstein qua thời gian theo dõi 1-2 năm cho thây tỷ lệ tái phát thấp khoảng 0,97%, trong nghiên cứu này tác giả cũng đề cập tới một số’ trường hợp đau mạn tính sau mổ ở mức độ đáng kể là khoảng 1,6%. Gần đây, có một số’ nghiên cứu về phẫu thuật đặt mảnh ghép (mổ mở và nội soi) với tỷ lệ tái phát thấp, nhưng không ghi nhận về vấn đề đau mạn tính vùng bẹn sau mổ. Vì vậy, những hiểu biết và kinh nghiệm trong nước ta về vấn đề này còn nhiều thiếu sót nếu không muốn nói là bị quên lãng. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm khảo sát về tình trạng đau mạn tính sau đặt mảnh ghép giữa hai nhóm bệnh nhân; mổ theo kỹ thuật Lichtenstein và nội soi (TEP hay TAPP), nhằm góp phần tìm hiểu thêm một kết quả lâu dài khác sau mổ, bên cạnh vân đề tái phát. Từ đó, đưa ra thêm một yếu tố’ để các phẫu thuật viên cân nhắc khi lựa chọn phương pháp điều trị cho bệnh nhân bệnh thoát vị bẹn.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất