Điều tra tình hình sử dụng cây cỏ làm thuốc của người Mường ở xã Mông Hoá huyện Kỳ Sơn tỉnh Hoà Bình
Tóm tắt: Tri thức sử dụng cây thuốc của người Mường rất phong phú. Chúng tôi đã thu đươc 570 tên cây thuốc, loại được 173 tên đồng nghĩa. Do đó, số tên cây thuốc theo tiếng địa phương là 397 tên khác nhau. Thu được 249 cây thuốc khác nhau theo danh mục, trong đó có 224 loài được giám định sơ bộ đến họ, 208 loài được giám định sơ bộ đến chi và 189 được giám định sơ bộ đến loài. Ngoài ra, còn 25 loài chưa giám định được tên khoa học. Qua điều tra đã thu được 16 bài thuốc với những công dụng khác nhau. Trong đó, 6có bài thuốc được sử dụng khá phổ biến trong công đồng. 10 bài thuốc là tri thức của chuyên gia.
1. Đặt vấn đề:
Hoà Bình là một tỉnh miền núi phía Tây Bắc Việt Nam, nơi sinh sống của nhiều dân tộc anh em tập trung đông nhất là dân tộc Mường.
Người Mường có cùng nguồn gốc với người Việt cổ, có chung một nền văn hoá rộng lớn, trải dài suốt bao thế kỷ. Do truyền thống lâu đời về sử dụng cây thuốc, cũng như sinh sống ở vùng núi cao nên phòng và điều trị bênh bằng thuốc cổ truyền đóng vai trò chủ đạo trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân tại tỉnh Hòa Bình. Phần lớn trong các hộ gia đình người Mường đều có khả năng tự chữa bệnh theo các bài thuốc cha truyền con nối. Trong đó, cây thuốc được người Mường sử dụng rất đa dạng và phong phú. Đặc biệt, chữa được nhiều bệnh hiểm nghèo như:biếu,sơ gan cổ trướng, viêm gan siêu vi trùng…[1], [4]
Mặc dù vậy, hiện nay có nhiều tài liệu chính thống đã tư liệu hoá về tri thức sử dụng cây cỏ làm thuốc của các dân tộc như Cao Lan, Thái, Dao, Hmông… mà chưa có tài liệu chính thống nào tư liệu về tri thứ sử dụng cây cây cỏ làm thuốc của người Mường. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi thực hiện đề tài : “Điều tra tình hình sử dụng cây cỏ làm thuốc của người Mường ở xã Mông Hoá- huyện Kỳ Sơn- tỉnh Hoà Bình” nhằm mục đích góp phần vào việc bảo tồn và phát triển những tri thức truyền thống trên với mục tiêu:
(1) Lập danh mục cây cỏ làm thuốc theo tiếng địa phương;
(2) Tư liệu hoá tri thức sử dụng cây cỏ làm thuốc;
(3) Sàng lọc một số bài thuốc chữa bệnh thường gặp trong cộng đồng.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các cây cỏ được người Mường sử dụng làm thuốc.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
– Lập danh mục cây cỏ làm thuốc theo tiếng địa phương: Dựa trên phương pháp liệt kê tự do: (1) Người cung cấp thông tin (NCCT) là những người đang thu hái, chế biến, bán thuốc hay những người hiểu biết về thuốc trong cộng đồng; (2) Phỏng vấn: Số NCCT dựa trên số loài cây thuốc tăng không đáng kể theo “đường cong loài”. (3) Loại bỏ tên đồng nghĩa và tổng hợp lập danh mục cây cỏ làm thuốc.
– Tư liệu hoá tri thức sử dụng cây cỏ làm thuốc theo phương pháp phỏng vấn và điều tra tuyến: (1) Thiết kế bộ câu hỏi phỏng vấn dựa trên danh mục cây thuốc thu được với các nội dung như tên địa phương, tên thường dùng, bộ phận dùng, công dụng, cách dùng, phân bố..(2) Phỏng vấn tất cả NCCT trên dựa trên bộ câu hỏi trên và thu mẫu tiêu bản, chụp ảnh đặc điểm hình thái (cơ quan dinh dưỡng, cơ quan sinh sản) đối các loài cây thuốc có trong vườn hộ. (3) Điều tra tuyến, để thu mẫu những cây thuốc ở xa khu vực sống và thu thập thông tin còn thiếu khi phỏng vấn tại hộ (4) Sử lý mẫu thu được theo phương pháp ướt và lưu trữ tại phòng tiêu bản của trường đại học Dược Hà Nội; (5) Giám định sơ bộ tên khoa học theo phương pháp so sánh hình thái dựa trên các sách cây thuốc, thực vật chí và đối chiếu với các tiêu bản tại trường Đại học Dược Hà Nội, Viện Dược liệu, Viện sinh thái tài nguyên sinh vât, Đai học quốc gia.
– Sàng lọc một số bài thuốc chữa bệnh thường gặp trong cộng đồng: Theo phương pháp phỏng vấn và nhập cuộc quan sát, thu thập các thông tin các bài thuốc như: tên các cây thuốc theo tiếng địa phương, số lượng, công dụng, cách dùng. Dựa trên sự thân tín và sẵn sàng chia sẻ của NCCT với người phỏng vấn
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích