ĐIỀU TRỊ BỔ SUNG CHỐNG TÁI PHÁT UNG THƯ BÀNG QUANG NÔNG BẰNG BCG TẠI CHỖ SAU PHẪU THUẬT

ĐIỀU TRỊ BỔ SUNG CHỐNG TÁI PHÁT UNG THƯ BÀNG QUANG NÔNG BẰNG BCG TẠI CHỖ SAU PHẪU THUẬT

 ĐIỀU TRỊ BỔ SUNG CHỐNG TÁI PHÁT UNG THƯ BÀNG QUANG NÔNG BẰNG BCG TẠI CHỖ SAU PHẪU THUẬT 

Nguyễn Ngọc Hiền*, Trần Đức Sơn*, Tôn Thất Minh Thuyết* 
TÓM TẮT 
Ung thư bàng quang chiếm tỷ lệ khoảng 10%,đứng thứ 4 trong các loại ung thư nam giới. Khoảng 75-90% ung thư bà ng quang là ung thư tế bà o chuyể n tiế p. 
Tỷ lệ tái phát sau phẫu thuật ung thư bàng quang nông khoảng 70-90%, đòi hỏi phải có điều trị bổ sung sau phẫ u thuậ t. Từ nhữ ng nă m cuố i thậ p niê n 1970 ngườ i ta đã sử dụ ng hó a trị liệ u bổ sung. Sau đó nhữ ng năm đầu thập niên 1980 Brosman và cs (1985) đã sử dụng BCG bơm vào bàng quang. Từ năm 1975 nhiều nhà niệu khoa đã áp dụng nhiệt trị trong điều trị bổ sung sau cắt đốt ung thư bàng quang thể nông nhằm 
chống tái phát. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để xem xét sự an toàn và hiệu quả của việc sử dụngImBCG trong trị liệu bổ sung chống tái phát sau phẫu thuật điều trị ung thư bàng quang nông. 
Có 56 lượt bệnh nhân được nghiên cứu gồm: Lô chứng (không điều trị bổ sung sau mổ): 20, lô sử dụng BCG (bơm vào BQ): 36, Các bệnh nhân được theo dõi kiễm tra sau 3 tháng, và mỗi 6 tháng sau đó. Kết quả: sự khác biệt về kết quả siêu âm, X. quang, niệu dòng đồ, chất lượng cuộc sống, số lần đi tiểu trong ngày… giữa 2 lô không có ý nghĩa thống kê (p= 1,000 Fisher’ exact). Các bệnh nhân có điều trị bổ sung đều có kết quả tốt hơn bệnh nhâ n ở lô chứng: thời gian tái phát sau phẫu thuật ở các nhóm có điều trị bổ sung đều kéo dài hơn ở nhóm chứng, trung bình là: lô chứng: 4,23 ±0,95 thá ng, lô sử dụ ng BCG: 19,20 ±7,50 thá ng. Sự khá c biệ t có ý nghĩa thống kê (p=0,0028; test Breslow)

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment