Điều trị hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi bằng ghép tế bào gốc tủy xương tự thân
Hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi (HTVKCXĐ) là một bệnh lý khớp háng mạn tính đã được biết đến từ lâu. Bệnh tiến triển nặng dần lên không bao giờ giảm đi, hậu quả cuối cùng là mất chức năng khớp háng (trung bình 2 năm từ khi có triệu chứng), cần phẫu thuật thay khớp háng nhân tạo rất tốn kém. Bệnh chiếm tỷ lệ khoảng 5% trong số các bệnh khớp mạn tính, 80% xảy ra ở nam giới, tuổi hay gặp từ 20 – 50. Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi khác nhau như: giảm tải cho khớp, khoan giảm áp, ghép xương, cắt xương thay đổi điểm tì hoặc thay khớp háng toàn phần nhưng chưa có phương pháp nào chứng minh hiệu quả ngăn cản sự tiến triển của bệnh dẫn đến giai đoạn vỡ xương.
Mặc dù nguyên nhân của HTVKCXĐ vẫn chưa rõ ràng nhưng giả thuyết cho rằng bệnh có nguồn gốc từ tế bào đang dần dần được chú ý. Hernigou và cộng sự [6] chỉ ra rằng ở những bệnh nhân có sử dụng rượu và corticoide, số lượng tế bào gốc trung mô tạo xương ở chỏm xương đùi hoại tử bị giảm đi. Sự giảm số lượng hoặc thay đổi chức năng biệt hóa và nhân lên của tế bào tiền thân có thể dẫn đến mất cân bằng giữa quá trình hình thành tạo cốt bào và quá trình chết theo chương trình hoặc hoại tử và kết quả là HTVKCXĐ sẽ xảy ra nếu sự mất cân bằng không được hồi phục. Tủy xương là một trong những kho dự trữ tế bào gốc của cơ thể trưởng thành. Ngoài tế bào gốc tạo máu (hematopoietic stem cell – HSC) đã được nghiên cứu từ lâu, tủy xương còn chứa tế bào gốc trung mô (mesenchymal stem cell – MSC), có thể biệt hoá thành các tế bào trưởng thành thuộc trung mô như tổ chức mỡ, xương và sụn. Bằng phương pháp nuôi cấy tế bào, Friedenstein [5] đã chứng minh rằng tủy xương có chứa những tế bào đầu dòng tạo xương, những tế bào này cũng là nguồn gốc của nguyên bào xương, nguyên bào sụn, nguyên bào sợi… Trên cơ sở đó, từ năm 1991 đến nay phương pháp ghép tế bào gốc tủy xương tự thân qua đường khoan giảm áp đã được một số tác giả áp dụng để điều trị HTVKCXĐ giai đoạn I, II và đã thu được kết quả điều trị tốt. Ở Việt Nam, tế bào gốc cũng đang được quan tâm nghiên cứu và ứng dụng nhưng cho đến nay chưa có tác giả nào áp dụng phương pháp dùng tế bào gốc của tủy xương để điều trị HTVKCXĐ, vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
1. Xác định thành phần tế bào của khối tế bào gốc tủy xương tự thân ghép cho bệnh nhân HTVKCXĐ.
2. Đánh giá hiệu quả điều trị HTVKCXĐ bằng tế bào gốc tủy xương tự thân.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
20 bệnh nhân với 20 khớp háng được chẩn đoán HTVKCXĐ giai đoạn 1 và II theo phân loại của ARCO (Association Research Circulation Osseous) điều trị tại bệnh viện TƯQĐ 108 từ tháng 4/2008 đến tháng 4/2010 có đầy đủ bệnh án theo dõi về lâm sàng và cận lâm sàng, chức năng của tủy xương và các cơ quan khác bình thường.
Tiêu chuẩn phân loại giai đoạn I, II theo ARCO [2]:
* Giai đoạn I: X quang bình thường nhưng CT scan và MRI có tổn thương.
* Giai đoạn II:
– X quang bất thường: tạo nang, hình mối ăn ở chỏm, xơ cứng xương, yếu xương. Không bẹp chỏm.
– CT scan và MRI có tổn thương, ổ cối bình thường.
– Tổn thương chia: trung tâm, bên trong và bên ngoài.
IIa: 15% vùng hoại tử chiếm ở chỏm.
IIb: 15 – 30% vùng hoại tử chiếm ở chỏm.
IIc: > 30% vùng hoại tử chiếm ở chỏm
Hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi là một bệnh lý khớp háng mạn tính, tiến triển nặng dần dẫn đến mất chức năng khớp háng. Mục tiêu: Xác định thành phần và hiệu quả điều trị hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi của khối tế bào gốc tủy xương tự thân. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 20 bệnh nhân nam với 20 khớp háng hoại tử giai đoạn I và II (theo phân loại của ARCO), mỗi bệnh nhân được chọc hút lấy 250 ml dịch tủy xương từ xương chậu, tách lấy thành phần tế bào đơn nhân bằng phương pháp ly tâm gradient tỷ trọng với dung dịch Ficoll tỷ trọng 1,077 g/l và tiêm vào vị trí hoại tử chỏm qua đường khoan giảm áp. Kết quả: Khối tế bào tiêm vào vị trí hoại tử có thể tích 20 – 30 ml, tổng số lượng tế bào có nhân là 13,73 x 108 ± 14,23 x 108; tổng số lượng tế bào CD34+ là 12,09 x 106 ± 7,59 x 106, tổng số lượng tế bào tạo cụm CFU – F là 43,73 x 103 ± 21,95 x 103. Theo dõi từ 6 – 24 tháng có 16/20 (80%) bệnh nhân đạt kết quả tốt và rất tốt, 4/20 (20%) bệnh nhân có kết quả điều trị xấu theo thang điểm Merle dAubingné. Kết luận: ghép tế bào gốc tủy xương tự thân là một phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi giai đoạn sớm (I và II).
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích