ĐIềU TRị HộI CHứNG ốNG Cổ TAY BằNG PHẫU THUậT ĐƯờNG Mổ NHỏVớI DAO CắT SụN CHÊM

ĐIềU TRị HộI CHứNG ốNG Cổ TAY BằNG PHẫU THUậT ĐƯờNG Mổ NHỏVớI DAO CắT SụN CHÊM

ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG ỐNG CỔ TAY BẰNG PHẪU THUẬT ĐƯỜNG MỔ NHỎ VỚI DAO CẮT SỤN CHÊM

ĐIỀU THỊ KIM PHỤNG

 ĐẶT VẤN ĐỀ

Hội chứng ống cổ tay la bệnh lý thường gặp ở bàn tay chiếm tỷ lệ khoảng 2%-5% trong cộng đồng [8], do thần kinh giữa bị đè ép. Điều trị đòi hỏi phải phẫu thuật giải ép thần kinh giữa. Có nhiều kỹ thuật mổ đã được báo cáo với nhiều đường mổ khác nhau, cho kết quả tốt. Tuy nhiên, vẫn còn một vài hạn chế. Trên cơ sở đó, phẫu thuật đường mổ nhỏ là một bước cải tiến quan trọng nhằm giảm bớt những hạn chế sau phẫu thuật. và đây cũng là cơ sở để thực hiện kỹ thuật mổ trong báo cáo này.

Lịch sử điều trị hội chứng ống cổ tay được biết đến từ 1913 với Marie và Fox [10] sau khi mổ tử thi trên bệnh nhân có teo cơ mô cái hai bên. Tác giả đã khuyến cáo nên cắt cân ngang cổ tay để giải ép thần kinh giữa. Tuy nhiên Learmont [9] mới là người đầu tiên mô tả phẫu thuật hội chứng ống cổ tay. Phalen 1966 báo cáo 654 trường hợp phẫu thuật trên 439 bệnh nhân. Sau đó nhiều đường mổ đã được báo cáo bởi nhiều tác giả [1,2] (hình 1+2). Các đường mổ bao gồm: đường chữ S, đường từ lòng bàn tay kéo dài xuống cổ tay theo nhiều hình thái như: đường zíc zác, đường ngang, đường dọc…

Do sự phát triển của ngành phẫu thuật bàn tay, các tác giả sau này đã cố gắng thâu hẹp đường rạch da nhằm hạn chế tổn thương phần mềm, cải thiện được khả năng kẹp và bấm của ngón tay. Nathan 1993] trình bày kỹ thuật mổ với đường mổ nhỏ 2cm với kính phóng đại x 2.5 (hình 3). Nathan dùng dao số 15 rạch ngược lưỡi. Như vậy kỹ thuật thiếu an toàn vì không có sự che chắn cho thần kinh giữa.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment