ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN SỚM: PHẪU THUẬT MỞ SO VỚI PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC

ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN SỚM: PHẪU THUẬT MỞ SO VỚI PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC

ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN SỚM: PHẪU THUẬT MỞ SO VỚI PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC
Đỗ Kim Quế*, Đào Hồng Quân*
TÓM TẮT :
Mở đầu: Ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) là một ung thư thường gặp và là nguyên nhân tử vong hàng đầu trong các bệnh ung thư. Phẫu thuật cắt thùy phổi và nạo hạch được xem là phương pháp điều trị tốt nhất cho UTPKTBN giai đoạn sớm. Phẫu thuật nội soi lồng ngực có video hỗ trợ là phương pháp ít xâm lấn, giúp bệnh nhân hồi phục nhanh, tuy nhiên nhiều người vẫn cho rằng phẫu thuật mở là phương pháp điều trị trị tốt hơn về ung thư học. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá vai trò của phẫu thuật nội soi lồng ngực có hỗ trợ video trong điều trị UTPKTBN giai đoạn sớm và so sánh với phẫu thuật mở kinh điển.

Phương pháp: Thu thập toàn bộ hồ sơ của bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn IA – IIB được phẫu thuật cắt thùy phổi và nạo hạch qua mổ nội soi lồng ngực có hỗ trợ video hoặc mổ mở tại bệnh viện Thống Nhất. Các đặc điểm của bệnh nhân, thông số phẫu thuật, biến chứng được đánh giá và so sánh. Sống còn được đánh giá theo Kaplan–Meier và phân tích Cox proportional hazards. Thời gian theo dõi từ 14 tới 66 tháng.

Kết quả: Trong thời gian 8 năm từ 2008 – 2016, 57 bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn IA – IIB đã được thực hiện phẫu thuật cắt thùy phổi nội soi lồng ngực có hỗ trợ Video và 60 bệnh nhân qua mở ngực tại bệnh viện Thống Nhất. 75 bệnh nhân nam và 42 bệnh nhân nữ, tuổi trung bình 56,3 (31 – 84). 106 bệnh nhân được mổ cắt thùy phổi và 11 bệnh nhân cắt 2 thùy phổi. Thời gian mổ trung bình ở nhóm cắt thùy phổi qua nội soi có hỗ trợ Video là 157 phút dài hơn nhóm mổ mở là 124 phút. Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm về các đặc điểm lâm sàng và dịch tễ. có 5 trường hợp trong nhóm mổ nọi soi phải chuyển mổ mở. 1 trường hợp tử vong trong nhóm mổ mở, ở mỗ nhóm có 1 trường hợp chảy máu cần mổ cầm máu. Rò khí kéo dài ở 7 bệnh nhân trong nóm mổ mở và 2 bệnh nhân trong nhóm mổ nội soi. thời gian nằm viện trung bình ở nhóm mổ mở là 18,4 ngày và 12,8 ngày ở nhóm mổ nội soi. Sống thêm 5 năm toàn bộ là 67,8% ở nhóm mổ nội soi và 71,6% ở nhóm mổ mở (p=0,156). Sống thêm 5 năm không bệnh tiến triển là 59,6 % ở nhóm mổ nội soi và 65,9% ở nhóm mổ mở (p=0,065). Không có khác biệt về sống thêm giữa 2 nhóm theo mô hình Cox (hazard ratio 0,82; P = 0,21).

Kết luận: Phẫu thuật nội soi có hỗ trợ Video là phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị UTPKTBN giai đoạn sớm. Phẫu thuật vẫn là lựa chọn ưu tiên trong điều trị UTPKTBN giai đoạn sớm. Phẫu thuật cắt thùy phổi qua nội soi lồng ngực có hỗ trợ Video có biến chứng ít và thời gian nằm viện ngắn, sống thêm 5 năm tương đương phẫu thuật mở.

Ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) là loại ung thư thường gặp và là nguyên nhân tử vong do ung thư hàng đầu trên toàn cầu. Phẫu thuật được xem là phương pháp điều trị chính cho những trường hợp UTPKTBN giai đoạn sớm(6,8). Hơn 1 thập kỷ qua đã chứng kiến sự phát triện mạnh mẽ của phẫu thuật nội soi lồng ngực trong điều trị UTPKTBN giai đoạn sớm. Báo cáo gần đây của Hội Phẫu Thuật Lồng Ngực Hoa kỳ cho thấy 32% các trường hợp cắt thùy phổi tại Hoa Kỳ được thực hiện qua phẫu thuật nội soi lồng ngực(2).

ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN SỚM: PHẪU THUẬT MỞ SO VỚI PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC

Leave a Comment