ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BÓNG VATER: LIỆU CÓ VAI TRÒ NÀO CHO PHẪU THUẬT KHOÉT U TẠI CHỖ?
ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BÓNG VATER: LIỆU CÓ VAI TRÒ NÀO CHO PHẪU THUẬT KHOÉT U TẠI CHỖ?
Nguyễn Tấn Cường*, Đoàn Tiến Mỹ**, Bùi An Thọ**, Nguyễn Hữu Lương**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề : Mục đích của nghiên cứu này là khảo sát tính khả thi, tai biến, biến chứng, kết quả điều trị ngắn hạn v thời gian sống cịn của phẫu thuật mở tá tràng khoét u Vater tại chỗ để điều trị ung thư bóng Vater
Phương pháp : Từ tháng 7/2004, các trường hợp bệnh nhân già co tổng trang kém, nhiều bệnh nội khoa đi kèm, từ chối phẫu thuật Whipple v.v..nhưng chưa có xâm lấn rộng tại chỗ hay di căn xa, (thường kích thước u từ 1-3cm) thay vì chỉ được phẫu thuật tạm bợ (nối mật- ruột, nối vị tràng …) thì được chỉ định mở tá tràng khoét bỏ u, tái tạo cơ vòng mật- tụy. Bệnh nhân được theo dõi sau mổ, ghi nhận tai biến, biến chứng,thời gian sống cịn và so sánh với các bệnh nhân được phẫu thuật triệt để hoặc phẫu thuật tạm bợ trong thời gian 1995-2004 tại khoa Ngoại Gan- mật bệnh viện Chợ Rẫy
Kết quả: 15 bệnh nhân (9 nam, 6 nữ) có độ tuổi trung bình là 67,8 tuổi, có tổng trạng yếu, nhiều bệnh nội khoa đi kèm (suy tim, lao phổi, cao huyết áp, tiểu đường…) hoặc không đồng ý làm phẫu thuật Whipple, được áp dụng phẫu thuật mở tá tràng, khoét u bóng Vater và tái tạo lại ngã ba mật- tụy. Thời gian mổ trung bình la 62 phút, có 1 trường hợp bị rò ruột non sau mổ do khâu phải ruột non khi đóng bụng, 14 trường hợp còn lại không có biến chứng hậu phẫu. Có 4 trường hợp tử vong (1 trường hợp tử vong sau 6 tháng do lao phổi di căn gan,1 trường hợp tử vong sau 9 tháng do ăn uống kém và suy kiệt, 1trường hợp tử vong sau 14 tháng do di căn và suy kiệt; 1 trường hợp tử vong sạu 25 thángdo u tái phát và suy kiệt), 1 trường hợp tái
phát u sau 19 tháng phải làm phẩu thuật Whipple (trường hợp này trước đó bệnh nhân không đồng ý làm phẩu thuật Whipple) số còn lại sống cho đến nay chưa thấy có biểu hiện tái phát hay di căn. Nếu so sánh với 49 trường hợp mổ triệt để trong giai đoạn 1995-2004 với tỉ lệ tử vong là 12,2%, tỉ lệ biến chứng sau mổ chiếm 44,4%. Thì phẫu thuật khoét u bóng Vater nhẹ nhàng hơn, không có tử vong, tai biến và biến chứng thấp (12,5%).
Kết luận Với số lượng bệnh nhân còn hạn chế và thời gian theo dõi đang tiếp tục chúng tôi nhận thấy phẫu thuật mở tá tràng khoét bỏ ung thư bóng Vater là một hướng nghiên cứu có triễn vọng, có thể áp dụng trên đối tượng bệnh nhân lớn tuổi có tổng trạng kém, nguy cơ phẫu thuật cao, với biến chứng và tử vong sau mổ thấp hơn cắt khối tá- tụy, chất lượng và thời gian sống sau mổ tốt hơn phẫu thuật nối tắt- mật- ruột và nối vị- tràng.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất