ĐIỀU TRỊCARCINÔM HỐC MŨI VÀ XOANG CẠNH MŨI

ĐIỀU TRỊCARCINÔM HỐC MŨI VÀ XOANG CẠNH MŨI

 Mục tiêu: Ung thư hốc mũi và xoang cạnh mũi là bệnh hiếm gặp. Bệnh thường phát hiện trễ và điều trị thường gặpnhiều khó khăn. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giákết quả điều trị carcinôm hốc mũi và xoang xạnh mũi. 

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 81 bệnh nhân carcinôm hốc mũi và xoang cạnh mũi đđược đđiều trị tại Bệnh viện Ung bướu trong 2 năm 2005-2006. 
 
Kết quả: Thường gặp ở tuổi 40 – 60. Tỉ lệ nam/nữ là 1,73. Vị trí thường gặp là hốc mũi (46%), xoang hàm (45%)và vị trí khác (9%). Carcinôm tế bào gai chiếm 66%, carcinôm tuyến (12%), carcinôm bọc dạng tuyến (12%),  carcinôm không biệt hóa (7%), carcinôm nhầy bì (3%). Xếp hạng bướu nguyên phát T1 chiếm 14%, T2 13%, T3 14% và T4 59%. Di căn hạch chiếm 17%. Điều trị, phẫu thuật + xạ trị 31%, xạ trị ± hóa trị gây đáp ứng (46%) và hóa trị đơn thuần (24%). Biến chứng do xạ thường gặp là viêm da và viêm niêm mạc miệng độ II (32% và 33%). Độc tính do hóa trị thường gặp là giảm bạch cầu độ III và IV (90%). Xác suất sống còn toàn bộ và không bệnh 5 năm là 39% và 31%. Một số yếu tố ảnh hưởng đến xác suất sống còn toàn bộ như sau: 1)giới: Tỉ lệ ở nữ 60% cao hơn nam là 24% (p=0,004).2) vị trí, hốc mũi là 60%, xoang hàm 33% (p=0,03). 3) Mô học, tỉ lệ sống còn toàn bộ của carcinôm bọc dạng tuyến là 87%, carcinôm tuyến 41% và carcinôm tế bào gai và carcinôm không  biệt hóa là 25% (p=0,032). 4) Xếp hạng bướu nguyên  phát, tỉ lệ là 75%, 64%, 36% và 13% cho bướu T1, T2, T3 và T4 (p=0,000). 5) Hạch di căn làm giảm tỉ lệ sống còn từ 45% xuống còn 0%. 6) Mô thức điều trị, tỉ lệ sống còn của phối hợp phẫu-xạ 83%, xạ trị 38% và hóa-xạ là 26%. 
 
Kết luận: Điều trị carcinôm hốc và xoang cạnh mũi vẫn cò làmột thách thức cho phẫu thuật viên và bác sĩ ung bướu do bệnh thường chẩn đoán ở giai đoạn trễ và điều trị tận gốc khó khăn. 
 Ung thư hốc mũi và xoang cạnh mũi là bệnh hiếm gặp và chiếm khoảng 3% carcinôm vùng đầu cổ và chiếm khoảng 0,5% ung thư các loại(2,10). Tần suất hàng năm ước tính khoảng 0,5 – 1/100.000 dân. Tần suất thấp và sự đa dạng về các loại mô học của ung thư vùng mũi xoang giải thích việc có rất ít trung tâm có kinh nghiệm về điều trị ung thư này. Hơn nữa, sựphức tạp về vị trí giải phẫu cũng như gần những cơ quan trọng yếu như mắt, não và dây thần kinh sọ làmcho phẫu thuật tận gốc và xạ trị khó khăn và những điều trị này gây nhiều biến chứng. 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment