Định loại sán dây và ấu trùng sán dây thu thập ở người tại 9 tỉnh miền bắc Việt Nam bằng sinh học phân tử

Định loại sán dây và ấu trùng sán dây thu thập ở người tại 9 tỉnh miền bắc Việt Nam bằng sinh học phân tử

 

 

Sán dây lợn trưởng thành ký sinh ở người do ăn phải thịt lợn có ấu trùng (lợn gạo) gây bệnh sán dây Taeniasis. Ấu trùng sán lợn ký sinh ở cơ, não… của người do ăn phải trứng sán dây lợn Taenia solium gây bệnh ấu trùng sán lợn Cysticercosis [3].

 

Bệnh ấu trùng sán lợn trên thế giới được Gess- ner thông báo năm 1558 và Rumler năm 1588. Năm 1995, Tổ chức Y tế thế giới thông báo trên thế giới có tới 100 triệu người nhiễm sán dây/ấu trùng sán lợn. Bệnh phân bố ở nhiều nước thuộc vùng Trung và Nam Mỹ, Trung và Nam Phi, các nước châu Á như Trung Quốc, Indonesia, Philip- pines, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan… Bệnh ấu trùng sán lợn có ở người, lợn nhà, khỉ, lợn rừng, lạc đà, gấu, chó, mèo, một vài loài ăn thịt và gậm nhấm, nhưng bệnh chủ yếu phổ biến ở lợn và người (người – lợn – người) [8].

 

Tại Việt Nam, bệnh sán dây và ấu trùng sán lợn được phân bố rải rác nhiều nơi, hiện nay đã xác định ít nhất có trên 50 tỉnh thành trong cả nước có bệnh lưu hành. Trong số bệnh sán dây trưởng thành Taeniasis gây bệnh ở người, nguyên nhân do T. solium chiếm 20%. Tại một xã thuộc tỉnh Bắc Ninh, điều tra trong cộng đồng dân cư, tỷ lệ nhiễm sán dây 12%, tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lợn 5,7% [3, 5, 6, 7]. Giám định phân tử sán dây đã bắt đầu từ năm 2001 bởi loài Taenia asiatica [2]; mẫu ấu trùng sán dây lợn phân lập trên lợn là T. solium [1] và loài khác [4]. Để khẳng định thành phần loài của đốt sán trưởng thành và  ấu trùng sán lợn ký sinh ở người, chúng tôi  tiến  hành thu thập đốt sán và sinh thiết nang sán dưới da bệnh nhân từ 9 tỉnh phía Bắc gồm Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Tây, Hải Phòng, Thái Bình, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang và Lạng Sơn nhằm mục tiêu:

 

Sử dụng gen cytochrome oxidase b (cob) của hệ gen ty thể để định loại đốt sán dây và ấu trùng sán dây trên người Việt Nam.

 

II. ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU

 

1. Mẫu sán nghiên cứu

 

Mẫu nghiên cứu là đốt sán dây trưởng thành thu thập từ bệnh nhân ở Bắc Ninh (huyện Quế Võ và Lương Tài) và Thái Bình (huyện Thái Thụy); nang sán được sinh thiết từ bệnh nhân ở Bắc Ninh (huyện Quế Võ và Yên Phong), Bắc Giang (huyện Hiệp Hoà), Hà Tây (huyện Đan Phượng), Hải Phòng (huyện Vĩnh Bảo), Thái Bình (huyện Thái Thụy), Thái Nguyên (huyện Võ Nhai), Bắc Kạn (huyện Chợ Đồn), Tuyên Quang (huyện Hàm Yên) và Lạng Sơn (huyện Chi Lăng). Các đốt sán và nang sán được cố định trong cồn 70% và bảo quản lạnh – 20°C, cho đến khi sử dụng để tách chiết ADN thực hiện giám định phân tử.

 

Bệnh sán dây Taeniasis và ấu trùng sán lợn Cysticercosis phổ biến rộng khắp ở Việt Nam. Việc xác định loài của chúng bằng sinh học phân tử là hết sức cần thiết. Mục tiêu: Sử dụng gen cytochrome oxidase b (cob) của hệ gen ty thể để định loại đốt sán dây và ấu trùng sán dây trên người Việt Nam. Phương pháp: Bằng phản ứng PCR (polymerase chain reaction), phân đoạn gen cytochrome oxidase b (cob) của hệ gen ty thể gồm 652 nucleotid và 217 acid amin của mẫu nghiên cứu được giải trình tự và so sánh đối chiếu với các chuỗi tương ứng của các loài Taenia solium Trung Quốc (TsoCN1), ấu trùng sán lợn trên lợn Việt Nam (TsoVN7) đã được xác định trước đây và Taenia crassiceps của Mỹ. Kết quả: 13 mẫu gồm đốt sán dây và ấu trùng (nang sán) phân lập trên người từ 9 tỉnh Việt Nam có mức độ tương đồng cao (99,1-99,8%) với T. solium Trung Quốc và Việt Nam phân lập trên lợn nhưng có độ sai khác khá lớn so với T. crassiceps của Mỹ (sai khác nucleotid 21,9% và acid amin 13,4%). Kết luận: Đốt sán trưởng thành và ấu trùng sán lợn từ bệnh nhân ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Tây, Hải Phòng, Thái Bình, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang và Lạng Sơn được xác định là loài Taenia solium.

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment