Định loại sán lă gan lớn ( giống Fasciola) ở người và gia súc bằng chỉ thị ADN
Đối chiếu, so sánh và phân tích trình tự ADN của 2 mẫu sán thu từ người và 4 mẫu có sai khác hình thái ngoài thu từ bò vùng Bình Định với các trình tự tương đồng của Fasciola ở một số’ nước nam Á và thế’ giới cho kết quả: các mẫu sán lá gan lớn ở người và bò đều thuộc loài F. gigantica, và lần đầu tiên loài sán này được xác nhận ký sinh ở người Việt Nam. Quần thể F. gigantica ở Việt Nam và một số nước vùng nam Á, trừ Indonesia có mức độ tương đồng khá cao về cấu trúc di truyền. Khảo sát 1350 sán lá gan lớn thu thập từ trâu, bò ở vùng Bình Định, Khánh Hoà đã tìm thấy 3 nhóm hình thái ngoài của chúng là nhóm giống F. hepatica, nhóm trung gian giữa F. hepatica và F. gigantica và nhóm F. gigantica. Dùng phản ứng PCR đặc hiệu loài F. gigantica để phân tích các nhóm hình thái này cho kết quả chúng đều là F. gigantica, chứng tỏ mức độ biến dị hình thái ngoài của F. gigantica là rất lớn. Kết quả cũng cho thấy quần thể sán lá gan lớn thu được từ trâu, bò ở vùng Bình Định, Khánh Hoà thuộc loai F. gigantica và khả năng tồn tại quần thể F. hepatica ở vùng này là rất thấp. Ngoài ra, còn phát hiện được một biến thể Redia con của F. gigantica có chứa nhiều cercaria hơn loại thông thường.
Sán lá gan lớn thuộc giống Fasciola là một trong những ký sinh trùng nguy hiểm nhất đối với người và gia súc. Nhiều tác giả đã ghi nhận loài F. hepatica và F. gigantica thuộc giống Fasciola ký sinh ở người và gia súc ở Việt Nam [3]. Hai loài này giống nhau ở nhiều đạc điểm hình thái, sinh thái, sinh học, nên việc định loại chúng trên cơ sở hình thái rất dễ nhẩm lần. Vì vậy, các số liệu điều tra về sán lá gan lớn ở nước ta còn nhiều mâu thuần, ví dụ, ở Bắc Bộ, Houdemer (1938) công bố có 64,7% trâu nhiễm F. hepatica và 23,5% bò nhiễm F. gigantica, nhưng Drozdz (1967) lại công bố 76,9% trâu bị nhiễm F. gigantica và chỉ có một con trâu ở Tuyên Quang nhiễm F. hepatica [2]. Đã có một số công bố về người Việt Nam bị nhiễm F. hepatica, nhưng không có các bằngchứng xác đáng về mạt định loại [3]. Cho đến nay vần chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về mạt phân loại học đối với F. hepatica và hẩu như không có cơ sở nghiên cứu nào lưu giữ mầu của loài này.
Trong vài năm gẩn đây, đã có hàng trăm bệnh nhân mắc bệnh sán lá gan lớn được ghi nhận, chủ yếu ở miền Trung nước ta và có thể có hàng chục nghìn người ở Việt Nam bị nhiễm sán này nhưng chưa được phát hiệnSán lá gan lớn, nhất là F. gigantica, chưa thích nghi hoàn toàn với đời sống ký sinh ở người và một số động vật khác, nên tỉ lệ sán phát triển đến trưởng thành rất thấp. Hơn nữa thời gian sán phát triển đến truởng thành cũng khá dài và là thời kỳ gây bệnh tích nạng cho vật chủ. Vì vậy phương pháp chẩn đoán bệnh sán lá gan lớn qua tìm trứng sán là không thích hợp. Hiện tại,các phương pháp chẩn đoán bênh sán lá gan lớn trên cơ sở phản ứng miễn dịch là duy nhất thích hợp cho các trường hợp trên. Vấn đề quan trọng hàng đẩu là phải xác định chính xác loài sán gây bênh để có các chẩn đoán miễn dịch đạc hiệu và tạo cơ sở khoa học cho những nghiên cứu tiếp theo để phòng trị bệnh sán lá gan lớn cho cả người và gia súc.
Phương pháp phân loại, giám định sinh vật dựa trên trình tự ADN của bô gen ty thể (mitochondrial DNA- mtDNA) và phản ứng PCR (polymerase chain reaction) đạc hiệu đang được dùng phổ biến. Lợi thế của phương pháp là cho kết quả có đô tin cậy cao, cẩn ít vật mầu và không phụ thuộc vào giai đoạn phát triển cá thể của sinh vật, nên rất phù hợp cho giám định loài sán lá gan lớn ký sinh ở người [8; 9]. Mạc dù thu mầu sán lá gan lớn ở người hết sức khó khăn, nhưng bệnh sán lá gan lớn là bệnh lây truyền giữa người và động vật, chủ yếu là trâu, bò, do đó việc xác định loài sán lá gan lớn ở các gia súc này sẽ là các bằng chứng gián tiếp về loài sán ký sinh ở người.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã kết hợp cả hai phương pháp trên, nhằm mục đích đảm bảo độ tin cậy cao của các kỹ thuật mới và tính hiệu quả khi khảo sát số lượng mầu lớn.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích