Dioxin – sức khoẻ trẻ em sinh sau chiến tranh hoá học ở Nam Việt Nam
Cuộc chiến tranh hoá học do Mỹ gây ra ở miền Nam Việt Nam đã kết thúc trên 30 năm nhưng vẫn còn ảnh hưởng nặng nề đối với sức khoẻ nhân dân, đặc biệt đối với trẻ em sinh ra sau khi chiến tranh kết thúc. Mục tiêu nghiên cứu nhằm đánh giá sự tồn lưu dioxin và sức khoẻ trẻ em tại Đà Nẵng. Kết quả nghiên cứu trên 8 684 bà mẹ từ 18 đến 49 tuổi với 16.443 lần sinh cho thấy: tỷ lệ trẻ đẻ non là 1,86%; trẻ bị DTBS: 1,68%; tử vong chu sinh: 0,59%; Kết quả phân tích hàm lượng dioxin trong máu trẻ em: 14 mẫu máu trộn, lượng dioxin tương ứng: 0,016 – 0,084 pg/g máu toàn phần; 6,65 – 21,71 pg/g lipit; Trong 31 mẫu máu cá nhân của trẻ bị dị tật bẩm sinh, lượng TCDD: 2,1 – 352,99 pg/g lipit. Trong đó một trường hợp có lượng TCDD đạt tứi 352,99 pg/g lipit. Tỷ lệ toàn phần PCDDs – TEQ/ tổng TEQ đạt 94,22%; Trẻ bị dị tật bẩm sinh do phơi nhiễm dioxin không tuân theo quy luật mà phụ thuộc vào gen bị đột biến. Các chỉ số miễn dịch CD3 CD4, CD8 và CD19 của nhóm trẻ cao hơn nhóm các bà mẹ với p < 0,01. Tóm lại, mặc dù chiến tranh đã qua trên 30 năm nhưng nó vẫn còn ảnh hưởng nặng nề đến sức khoẻ trẻ em sống quanh khu vực sân bay Đà Nẵng.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Với khối lượng lớn dioxin được sử dụng trong cuộc chiến tranh hoá học do Mỹ gây nên tại Nam – Việt Nam đã qua trên 30 năm nhưng hậu quả của nó vẫn còn hết sức nặng nề. Với đặc điểm bền vững trong môi trường cũng như quá trình chu chuyển trong chu trình sinh học, dioxin vẫn là nguy cơ cao đối với sức khoẻ cũng như gánh nặng bệnh tật cho nhiều thế hệ, đặc biệt đối với trẻ em sinh ra sau chiến tranh. Đà nẵng là thành phố thuộc miền Trung Việt Nam. Sân bay Đà Nẵng nằm trong khu vực thành phố và là nơi tàng trữ không chỉ vũ khí mà còn các chất độc hoá học. Những kho tàng đó đến nay vẫn là nỗi ám ảnh và nguy cơ phơi nhiễm cao đối với môi trường sống của dân cư sống xung quanh1,5. Để góp phần chứng minh sự tồn lưu và ô nhiễm đó của chất độc da cam / dioxin trên sức khoẻ cộng đồng, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Dioxin – sức khoẻ trẻ em sinh ra sau chiến tranh tại Đà Nẵng – Việt nam” với mục tiêu:
– Xác định một số yếu tố liên quan đến sức khoẻ trẻ em tại Đà Nẵng.
– Đánh giá sự tồn lưu dioxin trong cơ thể trẻ em sinh ra sau chiến tranh tại Đà Nẵng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
– Đối tượng: Các bà mẹ trong độ tuổi sinh sản từ 18 – 49 sống trong khu vực: đánh giá tình hình sinh sản và tai biến sinh sản (đẻ non, tử vong chu sinh, dị tật bẩm sinh).
– 130 trẻ bình thường và 31 trẻ bị dị tật bẩm sinh đều được sinh ra sau chiến tranh, tuổi dưới 15 sống quanh sân bay Đà Nẵng (phơi nhiễm dioxin) và 27 trẻ em sống quanh sân bay Cat Bi, Hải Phòng (nhóm chứng,).
2. Phương pháp nghiên cứu
– Phương pháp dịch tễ học mô tả: xác định tỷ lệ bất thường sinh sản như đẻ non, tử
vong chu sinh, dị tật bẩm sinh theo bộ câu hỏi được thiết kế sẵn.
– Phương pháp phân tích:
+ Phân tích dioxin trong mẫu máu trộn, máu cá nhân: xác định hàm lượng dioxin trong cơ thể trẻ.
+ Phân tích một số chỉ tiêu sinh học, miễn dịch của trẻ có hàm lượng dioxin trong máu cao và mẹ của chúng.
– Xử lý thống kê theo phần mềm Epi-Info đối chiếu với kết quả phân tích của trẻ em
vùng chứng: trẻ sống ở phường Cát Bi, Thành phố Hải Phòng bằng test T.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
– Tình hình chung về thai sản:
> Trong tổng số 8 684 bà mẹ tại Đài Nẵng có 8 349 bà mẹ đã từng mang thai với tổng số 17 029 lần với 16 443 lần đẻ, tỷ lệ số lần mang thai trên một bà mẹ là 2,03.
> + Tỷ lệ giới tính của trẻ: 51,761% là trai, 48,233% là nữ và 0,006% không xác định rõ giới tính.
> + Tỷ lệ các loại bất thường thai sản: 6,68% (n = 1.137 trường hợp), trong đó, sẩy thai: 29,46%; đẻ non: 26,61%; dị tật bẩm sinh: 24,37%; thai chết lưu: 17,94%; chửa trứng: 0,97%; chửa ngoài tử cung: 0,35%.
> Sẩy thai, dị tật bẩm sinh, đẻ non và thai chết lưu là các dạng BTTS thường gặp nhất, sau đó là dị tật bẩm sinh, đẻ non và thai chết lưu. Kết quả này không chỉ ảnh hưởng đến sức khoẻ bà mẹ mà còn liên quan đến sức khoẻ cũng như thể chất của trẻ.
– Tử vong chu sinh: 0,59%
Dị tật bẩm sinh:
Dị tật bẩm sinh bao gồm các dị dạng bẩm sinh biểu hiện ngay từ khi mới sinh và phát triển bất thường là những dị dạng hình thái hoặc bất thường chức năng biểu hiện muộn hơn trong quá trình phát triển cá thể.
Trong điều kiện điều tra ở cộng đồng, thiếu các phương tiện thăm khám và xét nghiệm chuyên sâu nên hầu hết các trường hợp thai dị dạng, dị dạng nội quan hoặc bệnh tật liên
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích