Độc tính của shellac f đối với nguyên bào sợi của tủy răng người

Độc tính của shellac f đối với nguyên bào sợi của tủy răng người

Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá độc tính của Shellac F đối với nguyên bào sợi của tủy răng người. Kết quả: Đối với nguyên bào sợi của tủy răng người, trong điều kiện tiếp xúc trực tiếp, Shellac F không còn độc tính ở mức độ pha loãng môi trường là 1:10 (tỷ lệ tế bào sống trung bình 77,47%), tương đương với Duraphat® (81,37%), trong khi đó Isodan không độc ở độ pha loãng 1:100 (tỷ lệ tế bào sống trung bình 93,44%); trong điều kiện tiếp xúc gián tiếp, cả ba vật liệu không còn độc tính ở độ pha loãng môi trường thử 1:10 (tỷ lệ tế bào sống trung bình tương ứng là 84%, 90% và 87%). Kết luận: Đối với nguyên bào sợi của tủy răng người, trong điều kiện tiếp xúc trực tiếp, mức độ độc tính với tế bào của Shellac F tương đương với Duraphat® và thấp hơn Isodan; trong điều kiện tiếp xúc gián tiếp, mức độ độc tính với tế bào của ba vật liệu tương đương nhau.

Nhuộm răng là một phong tục cổ truyền ở Việt Nam và một số nước thuộc Khu vực Đông Nam Á. Từ nhận xét thấy các răng nhuộm được bảo vệ tốt không bị sâu, trong những năm cuối thập niên 60 v à thập niên 70, ngành Răng Hàm Mặt Việt Nam đã có những đề tài sử dụng nhựa cánh kiến trên lâm sàng để điều trị ê buốt cổ răng và phòng chống sâu răng (Hoàng Thị Thục et al., 1968; Nguyễn Dương Hồng, 1970). Nhiều thử nghiệm lâm sàng sau đó được tiếp tục thực hiện cho thấy hiệu quả của vi ệc sử dụng nhựa cánh kiến trong chế ngự nhạy cảm ngà v à dự phòng sâu răng (Võ Thế Quang et al., 1985; Đào Thị Hồng Quân, 1996). Véc-ni Shellac F là một vật liệu được chế tạo từ nhựa cánh kiến đỏ có NaF. Đây là sản phẩm qui mô phòng thí nghiệm, kết quả của Công trình nghiên cứu của Khoa Răng Hàm Mặt – Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, phối hợp với Khoa Hóa – Đại Học Bách Khoa TP. HCM (Hoàng Tử Hùng et al., 2000).
Thử nghiệm về độc tính của Shellac F đối với dòng tế bào L929 và đối với nguyên bào sợi của nướu người đã cho phép có những kết luận về độc tính của Shellac F đối với các loại tế bào này trong điều kiện in vitro.
Mục tiêu của thử nghiệm này là đánh giá độc tính của Shellac F đối với nguyên bào sợi của tủy răng người, so sánh với các vật liệu chứng là Duraphat® (Colgate), Isodan (Septodont).
II.    VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Vật liệu
Shellac F: sodium fluoride (5%), ethanol, aceton, gum lac biến tính epoxy, silica.
Duraphat® (Colgate): sodium fluoride (5%), ethanol (96%), sáp ong trắng (E901), gum lac (E904), colophan, mastic, saccharin (E954), hương dâu.
Isodan (Septodont):    potassium nitrate,
HEMA, sodium fluoride, các chất phụ gia.
Nguyên bào sợi của tủy răng được lấy từ tủy của răng khôn chưa trưởng thành của người 16 tuổi, theo phương pháp mô tả bởi About (About I et al., 2000). Tế bào được nhận từ những người khỏe mạnh, được thông tin và xác nhận tình nguyện tham gia, theo Institutional Review Board approval.
Vật liệu – dụng cụ nuôi cấy tế bào của Gibco BRL (Life Technologies Inc., Grand Island, NY, USA).
Môi trường nuôi cấy tế bào MEM, bổ sung huyết thanh thai bò 5%, penicillin 100 UI/ml, streptomycin 100 ụg/ml (Biowhittaker, Grany, France).
Đĩa ngà được chuẩn bị bằng máy cắt mô cứng Isometd (Buehler Ltd., Lake Bluff, IL, USA), xử lý theo quy trình của Nakabayashi.
2.    Phương pháp
Phương pháp áp dụng trong thử nghiệm này là phương pháp thử độc tính với tế bào theo Chuẩn Châu Âu ISO 10993-5 (AFNOR, 1999), trong điều kiện môi trường nuôi cấy tế bào tiếp xúc trực tiếp với vật liệu thử, và tiếp xúc gián tiếp qua đĩa ngà.
Các bước tiến hành thử nghiệm
Chuẩn bị tế bào: Nguyên bào sợi của tủy răng người được nuôi cấy với mật độ 1 x 105 tế bào/cm2 trong điều kiện 5% CO2, 95% không khí, nhiệt độ 370C, độ ẩm tương đối 100%. Tế bào được đưa vào các khay thử (Becton Dickinson Labware, Lincoln Park, NJ, USA) với mật độ là 40000 tế bào/cm2.
Chuẩn bị môi trường
–    Môi trường thử tiếp xúc trực tiếp: Các vật liệu thử được ngâm riêng rẽ trong môi trường nuôi cấy, với tỷ lệ 0,1 g/ml, ở nhiệt độ 370C trong 24 giờ. Sau đó, môi trường thử được lấy ra và pha loãng ở các nồng độ khác nhau (1:1, 1:2, 1:10, 1:100, 1:1000, 1:10000) để chuẩn bị nuôi cấy tế bào.
–    Môi trường thử tiếp xúc gián tiếp: Các vật liệu thử tiếp xúc với môi trường nuôi cấy qua đĩa ngà, ở nhiệt độ 370C trong 24 giờ. Sau đó, môi trường thử được lấy ra và pha loãng ở các nồng độ khác nhau (1:1, 1:2, 1:10, 1:100, 1:1000, 1:10000) để chuẩn bị nuôi cấy tế bào.
–    Môi trường chứng dương tính.
–    Môi trường chứng âm tính.
Tiến hành thử nghiệm: Các khay tế bào đã chuẩn bị được nuôi cấy bằng các môi trường thử (với sáu mức nồng độ pha loãng) và môi trường chứng trong 24 giờ.
Đánh giá kết quả: Sau khi trải qua thử nghiệm MTT, kết quả được đọc bằng máy quang phổ kế E 960 (Bioblock, Strasbourg, France) ở bước sóng 550 nm. Với tỷ lệ tế bào chết dưới 20%, vật liệu được coi là không độc với tế bào.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment