Đối chiếu chụp động mạch vành lượng hóa với phân số dự trữ lưu lượng vành trong các trường hợp hẹp động mạch vành mức độ vừa

Đối chiếu chụp động mạch vành lượng hóa với phân số dự trữ lưu lượng vành trong các trường hợp hẹp động mạch vành mức độ vừa

Từ trước đến nay, chụp động mạch vành (ĐMV) qua đường ống thông vẫn được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán và điều trị bệnh mạch vành. Tuy nhiên, kĩ thuật này có nhiều sai số tùy theo góc chụp hay kinh nghiệm của bác sỹ can thiệp. Trong trường hợp hẹp mạch vành mức độ vừa (hẹp từ 40 – 70% lòng mạch), chỉ dựa vào hình  ảnh  giải  phẫu  rất  khó  kết  luận  liệu  tổn thương có ảnh hưởng tới dòng chảy mạch vành và thực sự liên quan với triệu chứng lâm sàng hay không [5].
Phân số dự trữ lưu lượng vành (Fractional Flow Reserve, viết tắt: FFR) là thông số phản ánh tình trạng hẹp chức năng của ĐMV ở thượng tâm mạc. FFR được định nghĩa là tỉ lệ giữa lưu lượng tối đa tưới máu cơ tim của ĐMV bị hẹp so với lưu lượng tối đa của ĐMV đó khi không tổn thương [3].
Trong thực hành lâm sàng, FFR được tính dựa trên tỉ lệ áp lực đầu xa so với áp lực đầu gần ĐMV. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh FFR < 0,8 có liên quan với tình trạng thiếu máu cơ tim và cần phải can thiệp tái tưới máu, trong khi FFR ≥ 0,8 thì chỉ cần điều trị bảo tồn [9].
FFR ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong tim mạch can thiệp như một thăm dò bổ sung thông tin cho kết quả chụp ĐMV, nhất là khi hẹp vừa ĐMV. Câu hỏi đặt ra là, đánh giá sinh lý (FFR) có liên quan với đánh giá giải phẫu (chụp ĐMV) hay không?
Vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu: Tìm hiểu mối tương quan giữa các thông số trên phim chụp ĐMV lượng hóa (Quantitative Coronary Angiography, viết tắt: QCA) với giá trị FFR của các tổn thương hẹp ĐMV mức độ vừa.
I.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Viện Tim mạch Quốc gia Việt Nam từ tháng 5.2010 đến tháng 10.2010. Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân có triệu chứng đau ngực trên lâm sàng, có hẹp ĐMV mức độ vừa trên phim chụp mạch cản quang theo đánh giá của thầy thuốc can thiệp. Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm bệnh nhân có nhồi máu cơ tim, phì đại thất trái, hoặc có bệnh lý nội khoa nặng. Tổng cộng có 35 bệnh nhân tham gia nghiên cứu.
2.    Quy trình nghiên cứu
Các bệnh nhân được khám lâm sàng, ghi điện tâm đồ, làm siêu âm tim, xét nghiệm men tim, sau đó được chụp ĐMV và đánh giá kết quả chụp mạch vành theo quy tắc thường quy của thầy thuốc can thiệp. Những tổn thương hẹp 40 – 70% ĐMV sẽ được tiến hành đo FFR và đánh giá lại QCA sau đó. Tổng cộng chúng tôi đã khảo sát FFR của 62 tổn thương hẹp vừa ĐMV ở 35 bệnh nhân.
Đánh giá phân số dự trữ lưu lượng vành. Dụng cụ đo FFR gồm dây dẫn áp lực PressureWire và máy đo Radi AnalyzerX của hãng Radi Medical Sysem, St. Jude Medical. Trên dây dẫn PressureWire có gắn một cảm biến áp lực cho phép đánh giá áp lực trong lòng ĐMV. Quy trình khảo sát FFR như sau: Kết nối dây dẫn áp lực với máy đo. Sau đó đưa dây dẫn vào lòng ĐMV, đi qua   chỗ   hẹp   xuống   đoạn   xa   ĐMV.   Tiêm adenosine mạch vành để tạo tình trạng gắng sức huyết động. Liều adenosine dùng theo khuyến cáo của nhóm tác giả phát minh FFR là 60µg với ĐMV trái, 40µg với ĐMV phải [2]. FFR được tính bằng tỉ số giữa áp lực đầu xa ĐMV (đo bằng cảm biến trên dây dẫn áp lực) so với áp lực đầu gần (đo bằng ống thông can thiệp). Can thiệp mạch vành nếu FFR < 0,8 và điều trị bảo tồn nếu FFR ≥ 0,8. Lựa chọn bóng và stent tùy theo thủ thuật viên.
Tính toán các thông số trên phim chụp ĐMV theo  phương  pháp  lượng  hóa  QCA.  Các  tổn thương  khảo  sát  FFR  được  đánh  giá  lại  theo phương pháp QCA bởi một kĩ thuật viên độc lập. Vị trí hẹp mạch vành nhiều nhất được sử dụng để tính toán mức độ hẹp. Tốc độ chụp mạch vành là 15 khung hình/giây. Các thông số trên QCA bao gồm: đường kính lòng mạch tối thiểu, đường kính lòng mạch tham chiếu, diện tích lòng mạch tối thiểu, phần trăm  hẹp đường kính mạch, phần trăm hẹp diện tích mạch, chiều dài tổi thương, tính toán bằng phần mềm Inffinix của hãng Toshiba. Sau đó so sánh các thông số đo trên QCA với FFR để tìm hiểu mối tương quan.
Phân số dự trữ lưu lượng vành (FFR) là thông số phản ánh tình trạng hẹp chức năng của động mạch vành (ĐMV) ở thượng tâm mạc. Tổn thương mạch vành có FFR < 0,8 được chứng minh liên quan với tình trạng thiếu máu cơ tim và cần can thiệp tái tưới máu. FFR ngày càng được ứng dụng rộng rãi như một thăm dò bổ sung thông tin cho kết quả chụp ĐMV, nhất là trong trường hợp hẹp mạch vành mức độ vừa. Mục tiêu: Tìm hiểu mối tương quan giữa chụp ĐMV với FFR của các tổn thương hẹp vừa ĐMV. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi khảo sát FFR của 62 tổn thương hẹp vừa ĐMV, sau đó đối chiếu giá trị FFR với các thông số chụp ĐMV lượng hóa theo phương pháp QCA gồm: đường kính lòng mạch tối thiểu, diện tích lòng mạch tối thiểu, mức độ hẹp lòng mạch, chiều dài tổn thương. Kết quả: So sánh hai nhóm tổn thương FFR < 0,8 và FFR ≥ 0,8, những tổn thương FFR < 0,8 có đường kính lòng mạch tối thiểu nhỏ hơn (1,2mm so với 1,7mm, p < 0,01), diện tích lòng mạch tối thiểu nhỏ hơn (1,3mm2  so với 2,3mm2, p < 0,001), mức độ hẹp lòng mạch lớn hơn (79,7% so vói 66,1%, p = 0,003), và chiều dài trung bình lớn hơn (23,6 mm so  với 12,6mm, p < 0,001). Đường kính lòng mạch tối thiểu và diện tích lòng mạch tối thiểu có tương quan đồng biến với FFR (r = 0,51 và r = 0,43). Mức độ hẹp lòng mạch và chiều dài tổn thương có tương quan nghịch biến với FFR (r = – 0,44 và r = – 0,64). Kết luận: Với tổn thương hẹp vừa mạch vành, mức độ hẹp giải phẫu theo phim chụp ĐMV lượng hóa có tương quan với mức độ hẹp mạch vành chức năng đánh giá bằng phân số dự trữ lưu lượng vành, tuy nhiên đây chỉ là tương quan mức độ trung bình.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment