Đối chiếu phân loại mô bệnh học và hoá mômiễn dịch với lâm sàng, nhằm rút kinh nghiệm cho chẩn đoán, điều trị, theo dõi sau điều trị.

Đối chiếu phân loại mô bệnh học và hoá mômiễn dịch với lâm sàng, nhằm rút kinh nghiệm cho chẩn đoán, điều trị, theo dõi sau điều trị.

U lympho không Hodgkin ngoài hạch vùng đầu cổchiếm 50% của u lympho ác tính không Hodgkin. Vị trí xuất phát rất phong phú. Phân loại mô học theo WHO – 2001 đã cho thấy nguồn gốc tế bào, độ ác tính, ứng dụng thích hợp trong điều trị, tiên lượng. Mục tiêu:Đối chiếu chẩn đoán lâm sàng với mô bệnh học và phân loại theo WHO – 2001. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang trên 50 bệnh nhân.  Kết quả:vị trí u nguyên phát từ mũi xoang (50%), vòngWaldeyer (40%), các vị trí khác (10%). Phân loại theo W.F có 96% ở độ ác tínhtrung bình. Phân loại theo WHO – 2001 tế bào B(66%), B lớn lan toả (44%), tế bào T (34%). Thể mũi xoang có nguồn gốc tế bào T (15/25), vòng Waldeyer có nguồn gốc chủ yếu từ tế bào B (19/1). Kết luận :có sự khác biệt về nguồn gốc tế bào B ở vòng Waldeyer và T ở vùng mũi xoang trong ULKH vùng đầu cổ.

U  lympho  ác  tính  (Lymphomalign)  được  chia làm  2  loại  là  u  lympho  dạng  Hodgkin (Lymphomalign  Hodgkinnien  –  L.H)  và  u  lympho không Hodgkin (Lymphomalign non Hodgkinnien
– L.N.H). Khối u lympho có nguồn gốc từ tế bào lympho  ở  hạch  bạch  huyết,  ở  các  cơ  quan  có nhiều tổ chức bạch huyết, hệ tạo máu, v.v… Tại vùng  đầu  cổ,  u  có  thể  xuất  phát  từ  vòng
Waldeyer,  mũi  xoang,  hạ  họng  –  thanh  quản, tuyến  giáp,  tuyến  mang  tai,  vòm  họng…  Đây  là thể u lympho ác tính không Hodgkin ngoài hạch của vùng đầu cổ (U.L.K.H).
U lympho ác tính chiếm khoảng 4% trong tổng số các ung thư ở Mỹ (hiệp hội ung thư Mỹ – 1993).
Trong  đó  L.N.H  gặp  nhiều  hơn  5  lần  loại  L.H. Trong  L.N.H  thể  khối  u  biểu  hiện  ở  ngoài  hạch vùng  đầu cổ  chiếm  gần  50%  các  trường  hợp.  Ở Việt Nam, vào thập kỷ 90 của thế kỷ 20 mới được đề cập tới loại bệnh này. Tỷ lệ bệnh đang  có xu hướng tăng lên: giai đoạn trước 1990 gặp ở nam là  3,8  và  nữ  là  2,0  cho  100.000  dân,  giai  đoạn sau 1990 đã là 6,2 ở nam và 2,8 ở nữ và nó được xếp vào hàng thứ 5 sau ung thư phổi, dạ dày,gan
và vòm mũi họng [2, 5].
Qua  50  bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  điều  trị qua lâm sàng, mô bệnh học và hoá mô miễn dịch chúng tôi thực hiện đề tài này với mục tiêu:
Đối chiếu phân loại mô bệnh học và hoá mômiễn dịch với lâm sàng, nhằm rút kinh nghiệm cho chẩn đoán, điều trị, theo dõi sau điều trị.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment