Đột biến gen Glucose – 6 – Phosphate Dehydrogenase (g6pd) ở ba nhóm dân tộc Mường, Tày, Thái ở Việt Nam
Glucose – 6 – Phosphate dehydrogenase (G6PD) là enzyme xúc tác phản ứng đầu tiên trong chu trình Hexose Monophosphate và thiếu G6PD là một trong những bất thường di truyền hay gặp nhất ở người. Gen quy định tổng hợp enzyme G6PD nằm trên nhánh dài vùng 2 băng 8 của nhiễm sắc thể X (Xq28), gồm 13 exon trong đó exon 1 không mã hoá tổng hợp acid amin. Hầu hết các trường hợp thiếu G6PD là do sự thay đổi của một acid amin gây ra bởi một đột biến trên gen G6PD và cho đến nay hơn 140 biến thể G6PD đã được phát hiện và công bố [10]. Do đột biến trên gen G6PD là bệnh di truyền nên việc sử dụng các đột biến để tìm nguồn gốc tổ tiên chung của các nhóm dân tộc mang nhiều ý nghĩa về mặt nhân chủng học [1, 3, 8].
Việt Nam có 54 nhóm dân tộc khác nhau, thiếu G6PD là tương đối phổ biến ở các dân tộc đã được điều tra. Tỷ lệ thiếu G6PD từ 0,5 – 31% ở các nhóm dân tộc phía Bắc và 1,9 – 4,4% ở các nhóm dân tộc phía Nam [7, 9]. Tuy nhiên nghiên cứu G6PD ở mức độ phân tử mới chỉ dừng lại ở 8 nhóm dân tộc Kinh, Kho, Châu Mạ, Nùng, Tày, Raglai, Pako và Khơ Mú [3, 7].
Để tiếp tục tìm hiểu dạng đột biến gen ở các nhóm dân tộc còn lại, chúng tôi đã tiến hành giải trình tự gen cho các mẫu thiếu G6PD thu thập từ người dân tộc Mường (Hoà Bình), Tày (Cao Bằng), Thái (Sơn La). Mục tiêu:
Phát hiện các điểm đột biến trên gen G6PD của một số nhóm dân tộc Việt Nam.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Sàng lọc thiếu G6PD cho 1328 đối tượng thuộc ba nhóm dân tộc Mường (284 người), Tày (424 người) và Thái (620 người). Có 242 trường hợp thiếu G6PD được xác định bằng test nhanh của Akira Hirono trong đó Mường 85 người, Tày 37 người và Thái 120 người. 100µl máu đầu ngón tay của người thiếu G6PD được thu thập vào giấy thấm Whatman 3, để khô tự nhiên, bảo quản ở 40C rồi chuyển sang phân tích tại trường Đại học Jichi – Nhật Bản
Có 39 trường hợp được phân tích tìm đột biến trên gen G6PD bao gồm Mường (3 nam, 15 nữ); Tày (2 nam, 2 nữ) và Thái (7 nam, 10 nữ).
2. Phương pháp nghiên cứu
DNA được tách chiết từ mẫu thu thập bằng kit QUIAamp DNA (Germany). Sử dụng 12 cặp mồi để khuyếch đại 12 exon của gen G6PD giống như bảng
1. Sản phẩm PCR sau khi được tinh sạch sẽ được tiến hành đọc trình tự DNA trên hệ thống máy ABI PRISM
310 Applied Biosystems, Foster City, CA, USA).
Thiếu G6PD là một bất thường di truyền hay gặp nhất, ảnh hưởng đến hơn 400 triệu người trên thế giới. Hầu hết các trường hợp thiếu G6PD đều do đột biến trên gen G6PD. Mục tiêu: phát hiện các điểm đột biến trên gen G6PD của một số nhóm dân tộc Việt Nam. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: tách chiết DNA từ 39 mẫu máu của ba nhóm dân tộc Mường, Tày và Thái. Sau khi dùng phản ứng PCR (Polymerase Chain Reaction) để nhân bản các đoạn exon của gen G6PD, sản phẩm PCR được nhuộm với fluorescent và sau đó là đọc trình tự DNA trên máy sequencing. Kết quả: có 6 sự thay đổi của nucleotide trên gen G6PD tại các vị trí 143 T > C, 487 G > A, 871 G > A, 1360 C > T, 1376 G > T và 1388 G > A. Đột biến tại các vị trí 871 G > A (G6PD Viangchan) và 1360 C > T (G6PD Union) hay gặp nhất, tỷ lệ tương ứng là 25,7% và 53,8%. Kết luận: G6PD Viangchan và G6PD Union là hai biến thể chủ yếu trong nghiên cứu về G6PD tại Việt Nam.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích