ĐỘT BIẾN GEN SLC25A13 GÂY BỆNH THIẾU HỤT CITRIN TRÊN NGƯỜI VIỆT NAM

ĐỘT BIẾN GEN SLC25A13 GÂY BỆNH THIẾU HỤT CITRIN TRÊN NGƯỜI VIỆT NAM

Thiếu hụt Citrin là bệnh di truyền lặn do đột biến gen SCL25A13 trên nhiễm sắc thể số 7 qui định. Nghiên cứu sàng lọc 4 đột biến thường gặp bao gồm đột biến thêm đoạn, mất đoạn và đột biến điểm trên gen SLC25A13 gây bệnh thiếu hụt Citrin. Kết quả cho thấy 60 bệnh nhân mang đột biến, bao gồm 31 bệnh nhân đồng hợp tử I, 24 bệnh nhân dị hợp tử với đột biến I, 1 bệnh nhân dị hợp tử với đột biến III, 1 bệnh nhân dị hợp tử kép với đột biến I và III, 2 bệnh nhân dị hợp tử kép với đột biến I và X, 2 bệnh nhân dị hợp tử kép với đột biến I và XIX. Tỷ lệ phát hiện đột biến là 20,48%. Tỷ lệ đột biến I và III, X, XIX trên tổng số alen bị đột biến lần lượt là 71,67% và 1,67%. Như vậy đột biến I là đột biến phổ biến nhất ở người Việt Nam mắc bệnh thiếu hụt Citrin. Kỹ thuật phân tích đột biến sử dụng trong nghiên cứu này có độ chính cao, hiệu quả để sàng lọc 4 đột biến thường gặp trên gen SLC25A13.

Thiếu hụt citrin (Citrin deficiency) là bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường, do đột biến gen SLC25A13 trên cánh dài nhiễm sắc thể số 7 qui định (7q21.3)[4]. Citrin – protein vận chuyển Aspartate-Glutamate (Aspartate Glutamate Carrier), đóng vai trò thiết yếu trong quá trình tổng hợp ure và kênh vận chuyển aspartate-malate (aspartate-malate shuttle – MA shuttle) [3, 5, 8]. Sự thiếu hụt Citrin ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp protein, tái tạo glucose và sinh tổng hợp nucleotit [8, 9].

Ở khu vực Đông Á, tần suất người mang gen bệnh trong các quần thể không đồng đều: ở Nhật Bản: 1/65; Trữig Qũốc: 1/63; Hàn Quốc: 1/108 [6].

Thiếu hụt Citrin được chia thành hai thể lâm sàng dựa vào độ tuổi khởi phát: Viêm gan ứ mật ở sơ sinh (Neonatal intrahepatic

cholestatic hepatitis caused by citrin deficiency – NICCD) và Tăng citrullin typ II khởi phát ở tuổi trưởng thành (Adult-onset type II Citrullinemia – CTLN2) [8].
Gen gây bệnh của cả hai thể lâm sàng nằm trên cánh dài của nhiễm sắc thể số 7 (7q21.3), có kích thước khoảng 200 kb, gồm 18 exon và mã hóa cho 675 axit amin (aa), cấu tạo thành Citrin. Citrin chủ yếu biểu hiện ở gan là cơ quan đóng vai trò chuyển hóa nhiều chất khác nhau [3, 5, 9]. Khoảng 50 đột biến đã được tìm thấy trên gen SLC25A13. Tuy nhiên, chỉ một số đột biến thường gặp, và phụ thuộc vào từng quốc gia khác nhau [6, 9].
Ngoại trừ một số ca bị rối loạn chức năng gan nghiêm trọng cần phải ghép gan, NICCD sẽ thuyên giảm dần vì các triệu chứng sẽ biến mất khi trẻ đầy 1 tuổi. Tuy nhiên, sau 10 năm hoặc lâu hơn nữa, một số bệnh nhân có thể chuyển sang CTLN2 với các triệu chứng liên quan đến thần kinh, có thể nguy hiểm đến tính mạng [1, 5]. Hơn nữa các dấu hiệu lâm sàng và các xét nghiệm hóa sinh trong chẩn đoán xác định bệnh thiếu hụt Citrin thường không 
đặc hiệu [9]. Hiện nay, kỹ thuật sinh học phân tử là phương pháp duy nhất để chẩn đoán xác định bệnh nhân nghi ngờ mắc thiếu hụt Citrin, góp phần quan trọng trong phát hiện sớm và ngăn chặn NICCD chuyển sang CTLN2. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu: Phân tích 4 đột biến thường gặp trên gen SLC25A13 bằng kỹ thuật sinh học phân tử.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment