Dự BáO CủA CáC CHỉ Số BIếN THIÊN NHịP TIM TRÊN HOLTER ĐIệN TIM ĐốI VớI BIếN Cố TIM MạCH ở BệNH NHÂN ĐáI THáO ĐƯờNG TýP 2
Dự BáO CủA CáC CHỉ Số BIếN THIÊN NHịP TIM TRÊN HOLTER ĐIệN TIM ĐốI VớI BIếN Cố TIM MạCH ở BệNH NHÂN ĐáI THáO ĐƯờNG TýP 2
Đào Thị Dừa, Nguyễn Tá Đông
Bệnh viện Trung ương Huế
TóM TắT
Đặt vấn đề và mục tiêu: Các chỉ số biến thiên nhịp tim (BTNT) được đánh giá bằng Holter điện tim 24 giờ sẽ phản ảnh chính xác hoạt động của thần kinh tự động tim mạch (TKTĐTM), là dự báo có tính thuyết phục đối với biến cố tim mạch ở bệnh nhân ĐTĐ týp2.
Mục tiêu củađề tài là: 1) Tìm hiểu các chỉ số biến thiên nhịp tim qua Holter ECG ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2. 2)
Đánh giá nguy cơ và giá trị dự báo của các chỉ số biến thiên nhịp tim qua Holter ECG đối với các biến cố tim mạch ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 106 Bệnh nhân ĐTĐ và 50 chứng. – Nghiên cứu thuần chủng- mô tả -cắt ngang, chẩn đoán các biến cố tim mạch,Glucose máu đói, Holter điện tim 24 giờ.
Kết quả:Các chỉ số BTNT ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ đều thấp hơn so với nhóm chứng,càng giảm các chỉ số BTNT thìnguy cơ xảy ra biến cố tim mạch càngcao. Càng giảm các chỉ số BTNT thìgiá trị dự báo đối với các biến cố tim mạch càng cao
Kết luận: Các chỉ số BTNT ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ đều thấp hơn so với nhóm chứng. Càng giảm các chỉ số BTNTthìgiá trị dự báo đối với các biến cố tim mạch càng cao
TàI LIệU THAM KHảO
1. Trương Đình Cẩm, Phạm Quốc Khánh, Nguyễn Đức Công, Thái Hồng Quang, Phạm Gia Khải, Nguyễn Lân Việt,“Nguy cơ vàgiá trị dự báo của các chỉ số biến thiên nhịp tim đối với rối loạn nhịp thất ở bệnh nhân ĐTĐtýp 2” Hội nghị khoa học tim mạch toàn quốc lần thứ XI, tr 186.
2. Trương Đình Cẩm, Phạm Quốc Khánh, Nguyễn Đức Công, Thái Hồng Quang, Phạm Gia Khải, Nguyễn Lân Việt, “Nghiên cứu sự biến đổi các chỉ số biến thiên nhịp tim ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 biến chứng suy tim mạn tính” Hội nghị khoa học tim mạch toàn quốc lần thứ XI, tr 186.
3. Huỳnh Văn Minh, Lê Thị Bích Thuận, Hoàng Viết Thắng, Nguyễn Tá Đông và cs (2005), ” Holter điện tim 24 giờ, áp dụng kết quả nghiên cứu trong 5 năm tại trường ĐHYK Huế”, Hội nghị khoa học Y dược lần thứ XI tháng 9 / 2005; Y học thực hành 2005, (521), tr. 441 -448.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất