Gánh nặng kinh tế của tai nạn thương tích

Gánh nặng kinh tế của tai nạn thương tích

Nghiên cứu này nhằm mục đích ước lượng chi phí của toàn bô tai nạn thương tích (thương tích không chủ ý) của huyên Ba Vì trong 01 năm và mô tả gánh nặng kinh tế của tai nạn thương tích phân bô’ như thế’ nào giữa hô gia đình, Chính phủ và cơ quan bảo hiểm y tế. Nghiên cứu thuần tập của chúng tôi bao gồm 04 điều tra cắt ngang công đồng mẫu nghiên cứu tại huyên Ba Vì trong năm 2000, mỗi cuôc điều tra đều hỏi về tai nạn thương tích trong vòng 03 tháng trước ngày phỏng vấn. Thông tin về chi phí được lấy từ các cơ sở y tế công và hỏi từ nạn nhân. Tổng chi phí của tai nạn thương tích tại Ba vì được ước tính là 3,412,539,000 đồng, tương đương với thu nhập hàng năm của 1800 người ở Ba Vì. Chín mươi phần trăm của gánh nặng kinh tế này rơi vào các hô gia đình, chỉ có 8% rơi vào Chính phủ và 2% vào cơ quan bảo hiểm y tế. Chi phí trung bình cho môt tai nạn thương tích nặng tương đương khoảng 7 tháng thu nhập của nạn nhân. Tai nạn thương tích xảy ra ở nhà và tai nạn giao thông chiếm trên 80% tổng chi phí, lần lượt là 45% và 38%.

Trên thê’ giới mỗi ngày khoảng 16000 người chết vì tai nạn thương tích. ứng với mỗi người chết có đến hàng ngàn người khác bị thương và nhiều người phải mang thương tật vĩnh viễn [7]. Tai nạn thương tích không chỉ là nguyên nhân gây chết và tàn tật hàng đẩu, mà còn là một gánh nạng tài chính lớn đối với các nền kinh tế. Ớ Việt Nam, các số’ liêu thống kê cho thấy tai nạn thương tích là một vấn đề đang tăng nhanh, đạc biệt là từ khi bước sang thời kỳ Đổi Mới. Điều này đạc biệt rõ ràng với tình hình tai nạn giao thông [5]. Từ 1988 đến 1997, số vụ tai nạn giao thông tăng bốn lẩn lên đến con số 19,159. Thống kê của cảnh sát cho thấy các tai nạn gây chết người tăng 235%, tai nạn gây thương tích tăng 400%. Tỷ lệ bị tai nạn giao thông tăng từ 7,1 đến 24,9 trên 1000 người dân, tỷ lệ bị chết tăng từ 3,9 đến 7,4, và tỷ lệ bị thương tăng từ 8,7 đến 28,4, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước có tỷ lệ bị tai nạn giao thông cao nhất trên thế giới [6]. Tuy nhiên, gánh nạng kinh tế’ của các tai nạn thương tích đó thì chúng ta không biết vì chưa có một nghiên cứu phân tích chi phí tai nạn thương tích nào được công bố.
Mục tiêu:
1.    Ước lượng toàn bộ chi phí của tất cả các tai nạn thương tích của huyện Ba Vì trong vòng một năm,
2.    Mô tả gánh nạng kinh tế của tai nạn thương tích phân bổ giữa nạn nhân, Chính phủ và cơ quan bảo hiểm y tế.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Toàn huyện có 352 cụm dân cư (mỗi cụm là 1 làng) với số hộ gia đình dao động từ 41 đến 512 (trung bình là 146,4) và số dân dao động từ 185 đến 1944 (trung bình là 676). Ba mươi cụm được chọn ngầu nhiên vào nghiên cứu với số dân là 23,807 người. Quẩn thể nghiên cứu được theo dõi bằng 04 cuộc điều tra cắt ngang cách nhau 3 tháng một trong năm 2000. Qua hỏi chủ hộ, người bị tai nạn thương tích được phát hiện, và bước tiếp theo là điều tra viên phỏng vấn trực tiếp nạn nhân. Nếu không thể gặp được nạn nhân hoặc nạn nhân là trẻ em thì chủ hộ sẽ là người cung cấp thông tin. Tất cả các trường hợp tai nạn thương tích xảy ra trong vòng 03 tháng trước ngày phỏng vấn đều được ghi lại.
Một tai nạn thương tích được định nghĩa như “một tình huống không mong muốn bất ngờ xảy ra trong mối liên hê giữa cá nhân và môi trường làm cho cá nhân bị thương tích” [3]. Tai nạn giao thông bao gồm tất cả các tai nạn liên quan ít nhất một phương tiên giao thông bất kể loại gì. Trong nghiên cứu này, định nghĩa bao gồm cả những người đi bộ bị thương không liên quan đến phương tiên giao thông, ví dụ như bị thương do vấp hay trượt chân ngã. Tai nạn thương tích ở nhà là tai nạn thương tích xảy ra ở phạm vi nhà ở như trong nhà, ngoài sân, vườn, đường đi lại trong nhà, nơi để xe, ao của nhà…. Tai nạn thương tích liên quan đến lao động sản xuất là tai nạn thương tích xảy ra tại nơi làm viêc. Một tai nạn thương tích trường học được định nghĩa như một tai nạn thương tích xảy ra tại khu vực trường học trong giờ học hoặc trong các hoạt động do nhà trường tổ chức. “Loại khác” bao gồm các tai nạn thương tích xảy ra ở môi trường hoặc trong các hoạt động chưa được đề cập ở trên, như một nơi công cộng khác, sân kho, ao làng… Định nghĩa một trường hợp tai nạn thương tích ở nghiên cứu này là phải đáp ứng ít nhất một trong các điều kiên sau: (1) Phải sử dụng bất kể một loại hình chăm sóc sức khoẻ nào, (2) Phải nằm tại giường ít nhất một ngày, (3) Phải dừng các công việc hoặc hoạt động thường lệ hàng ngày ít nhất một ngày. Do không có chẩn đoán của bệnh viện, để phân loại mức độ nặng nhẹ của thương tích, chúng tôi sử dụng quan niêm của nạn nhân.
Trong phân tích chi phí của chúng tôi, “chi phí trực tiếp” bao gồm chi phí cho y tế và cho đi lại. Toàn bộ chi phí trực tiếp cho y tế’ được chia thành 03 phẫn: bệnh nhân trả trực tiếp, Chính phủ cấp và Bảo hiểm y tế. Để tránh tính hai lẫn, chúng tôi lấy số’ tiền viện phí bệnh nhân phải trả trừ đi số tiền họ thanh toán lại với cơ quan bảo hiểm.
Chi phí gián tiếp bao gồm chi phí cho thời gian của bệnh nhân, chi phí cho thời gian của người nhà nghỉ để chăm sóc bệnh nhân và chi phí cho “hoạt động bình thường bị hạn chế”[2]. Chi phí cho thời gian của bệnh nhân và người nhà tương đương với lượng sản phẩm đã không được họ làm ra trong thời gian nghỉ để điều trị. Chi phí này được ước lượng bằng cách nhân số ngày họ nghỉ việc để điều trị hoặc để chăm sóc nạn nhân với thu nhập trung bình một ngày của 01 người. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng số liệu của Cơ sở thực địa dịch tễ học Ba Vì năm 1999, ở đó thu nhập 01 người/01 ngày là 5.300 đồng. Khái niệm “hoạt động bình thường bị hạn chế” bao gồm tất cả các hoạt động khác (ví dụ: đi học) nằm ngoài phạm vi thị trường lao động, không được duy trì do tai nạn thương tích. Vì lý do một số hoạt động bình thường có thể giá trị hơn lao động sản xuất và một số thì kém, chúng tôi ước lượng giá trị của nó như giá trị của thời gian lao động. Vì vậy, tổng chi phí cho các hoạt động bình thường bị hạn chế được ước tính bằng số ngày bị hạn chế các hoạt động bình thường nhân với thu nhập 01 ngày của 01 người.
Toàn bộ chi phí cho tai nạn thương tích của cả huyện được ước tính bằng cách nhân chi phí trong mầu nghiên cứu với tỷ lệ giữa toàn bộ dân số huyện và mầu nghiên cứu (235000/23807=9,87). Chi phí đơn vị (chi phí cho 01 tai nạn thương tích) của các loại tai nạn thương tích khác nhau được tính bằng cách lấy tổng chi phí cho 01 loại chia cho số tai nạn thương tích trong loại đó.
Để ước tính gánh nặng kinh tế của tai nạn thương tích trên vai nạn nhân, chúng tôi chuyển chi phí đo lường bằng tiền sang chi phí đo lường bằng thời gian làm việc của họ. Thời gian làm việc là số tháng cẫn thiết để nạn nhân có thể kiếm được số tiền chi phí cho tai nạn thương tích của họ. Thời gian làm việc được tính bằng cách nhân chi phí đơn vị với phẫn

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment