GÂY MÊ HỒI SỨC MỔ CẮT U TUYẾN ỨC TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY TỪ NĂM 2004 – 2012
GÂY MÊ HỒI SỨC MỔ CẮT U TUYẾN ỨC TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY TỪ NĂM 2004 – 2012
Phạm Văn Đông*, Võ Hữu Ngoan*, Nguyễn Thị Thảo Trang*, Lê Văn Dũng*
TÓM TẮT :
Mục tiêu: khảo sát mối tương quan giữa hai nhóm gây mê cắt tuyến ức có dùng và không dùng thuốc dãn cơ (TDC) với tỉ lệ suy hô hấp (SHH) sau mổ và thời gian hậu phẫu (TGHP).
Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu, mô tả có phân tích tất cả bệnh nhân nhược cơ độ IIA, IIB (theo Osserman) được gây mê phẫu thuật cắt tuyến ức nội soi từ 03-2003 đến 06-2012.
Kết quả: 124 bệnh nhân (BN), chia 2 nhóm. Nhóm 1: 43 BN dùng TDC (34,6%), nhóm 2: 81 BN không dùng dãn cơ (KTDC) (65,4%). Kết quả sau mổ: thời gian tự thở qua nội khí quản (TGNKQ) trung bình ở nhóm 1 là 21,61 ± 11,40 giờ, ở nhóm 2 là 5,69 ± 5,13 giờ. Tỉ lệ SHH khác nhau giữa 2 nhóm, nhóm 1 SHH là 60%, nhóm 2 là 7,4%. Thở máy (TM) ở nhóm 1 là 20,9%, nhóm 2 là 7,4%. Thời gian thở máy (TGTM) ở nhóm 1 trung bình 56,06 ± 57,98 giờ, ở nhóm 2 trung bình 3,50 ± 1,33 giờ. Thời gian điều trị tại hậu phẫu (TGHP) cũng khác biệt giữa 2 nhóm với p < 0,001 có ý nghĩa thống kê, ở nhóm 1 trung bình 30,94 ± 34,81 giờ, ở nhóm 2 trung bình 9,77 ± 9,38 giờ. Ngoài ra, các biến số khác có khác nhau nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm, với p > 0,05.
Kết luận: những BN dùng TDC trong gây mê phẫu thuật (PT) cắt tuyến ức qua nội soi có tỉ lệ SHH, TM và TGHP cao hơn so với bệnh nhân KTDC.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất