GÂY MÊ HỒI SỨC TRONG PHẪU THUẬT TIM TRÊN BỆNH NHÂN CÓ TĂNG ÁP PHỔI TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
GÂY MÊ HỒI SỨC TRONG PHẪU THUẬT TIM TRÊN BỆNH NHÂN CÓ TĂNG ÁP PHỔI TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Phan Thị Thu Yến*, Nguyễn Văn Chừng**
TÓM TẮT
Tăng áp phổi (TAP) là một trong những hậu quả nghiêm trọng trong quá trình tiến triển bệnh lý tim và vẫn còn là thách thức lớn đối với gây mê hồi sứcphẫu thuật tim. TAP là một yếu tố nguy cơ quan trọng làm tăng tần suất biến chứng và tử vong sau phẫu thuật.
Mục tiêu:đánh giá hiệu quả của gây mê hồi sức trên bệnh nhân phẫu thuật tim có TAP qua việc khảo sát sự biến đổi của một số chỉ số huyết động học, xác định tần suất các biến chứng chu phẫu và tử vong bệnh viện.
Bệnh nhân và phương pháp: Hồi cứu mô tả 123 bệnh nhân phẫu thuật tim có TAP tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 03/2005 đến 12/2006. Phương thức gây mê cân bằng phối hợp fentanyl-vecuronium-propofolisoflurane, giảm thể tích khí thường lưu (VT=8ml/kg),tăng tần số hô hấp 15-20 lần/phút, đảm bảo cung cấp đầy đủ oxy với áp lực đường thở thấp, kiềm hóa máu;phối hợp sử dụng thuốc tăng co bóp cơ tim và thuốcgiãn mạch phổi trong và sau mổ. Những chỉ số huyết động được theo dõi bao gồm: mạch, huyết áp động mạch (HAĐM),CVP, áp lực động mạch phổi (ALĐMP),tỷ lệ ALĐMP TB/HAĐM TB, ALĐMP tâm thu đánh giá qua siêu âm tim.
Kết quả: Các trị số huyết động học trong và sau mổ ổn định với tỷ lệ sử dụng thuốc tăng co bóp cơ tim khoảng 63%, thuốc giãn mạch phổi trong mổ, sau mổ lần lượt là 5%, 36%. Đa số các trường hợp có cải thiện về ALĐMP: trong mổ, sau phẫu thuật, ALĐMP TB giảm 16,6% (p<0,001),tỷ lệ ALĐMP TB/HAĐM TB giảm 26,4% (p<0,001) ; trong thời gian hồi sức, ALĐMP thay đổi không có ý nghĩa (p>0,05). Sau phẫu thuật, ALĐMP tâm thu đánh giá qua siêu âm giảm 51% so với trước mổ (p<0,001). Biến chứng thường gặp nhất là suy tim cấp. Tỷ lệ tử vong là 5,7%, đa số bệnh nhân có TAP nặng trước mổ.
Kết luận: Phưong thức gây mê hồi sức trên là an toàn và có hiệu quả. Quá trình gây mê và hồi sức đòi hỏi phải hạn chế, ngăn ngừa, phát hiện sớm và điều trị kịp thời các yếu tố làm TAP. Trong và sau mổ cần theo dõi sát các trị số huyết động, nhất là tỷ lệ giữa áp lực động mạch phổi và động mạch hệ thống trước và sau tuần hoàn ngoài cơ thể.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất