Gây viêm tiểu phế quản nặng ở trẻ em tại bệnh viện nhi trung ương từ 1/1 đến 31/3 năm 2011
Nghiên cứu nguyên nhân gây viêm tiểu phế quản nặng ở trẻ em tại bệnh viện Nhi Trung ương từ 1/1 đến 31/1 năm 2011 được thực hiện với mục tiêu: (1) Xác định một số virus gây viêm tiểu phế quản nặng ở trẻ em; (2) Nhận xét một số biến chứng của viêm tiểu phế quản nặng do virus. Kết quả nghiên cứu cho thấy: có 43 bệnh nhân viêm tiểu phế quản nặng chiếm 29,3% số bệnh nhân viêm tiểu phế quản vào điều trị tại khoa hô hấp; Tỷ lệ trẻ dưới 6 tháng chiếm 67,4%, tỷ lệ nam/nữ là 3/2. Trong đó tỷ lệ dương tính với các virus: Cúm A 3,3%, cúm B 0%, RSV 26,7%, Adenovirus 10% và Rhinovirus 60%. Tỷ lệ biến chứng: Viêm phổi do vi khuẩn 51,7% , xẹp thùy phổi 16,3%, khò khè kéo dài 41,9%, tái nhiễm virus 11,6%. Tỷ lệ thở máy 4,7%, không có bệnh nhân tử vong.
Viêm tiểu phế quản (VTPQ) là bệnh viêm cấp tính của các tiểu phế quản ở trẻ em, đặc trưng bởi triệu chứng khò khè. Virus hợp bào hô hấp là nguyên nhân thường gặp nhất gây viêm tiểu phế quản, chiếm 75% [3, 5]; ngoài ra, một số nguyên nhân khác rất hay gặp là virus cúm A, adenovirus, virus cúm, rhinovirus, Mycoplasma pneumoniae và Chla- mydia pneumoniae. Tỷ lệ nhập viện do VTPQ trên thế giới cũng như ở Việt Nam tăng nhanh trong 10 năm gần đây, đặc biệt vào mùa đông – xuân, từ tháng 11 đến tháng 3 hàng năm. Viêm tiểu phế quản nặng thường gặp ở trẻ 3 đến 6 tháng tuổi; trong đó tỷ lệ VTPQ nặng phải thở máy hỗ trợ là 1 – 3% [3].
Để tìm hiểu một số nguyên nhân thường gặp của bệnh viêm tiểu phế quản nặng ở trẻ em tại khoa Hô Hấp bệnh viện Nhi Trung ương ba tháng đầu năm 2010, chúng tôi tiến hành nghiên cứu nguyên nhân gây viêm tiểu phế quản nặng ở trẻ em với mục tiêu:
1. Xác định một số virus gây viêm tiểu phế quản nặng ở trẻ em.
2. Nhận xét một số biến chứng của VTPQ nặng do virus.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng nghiên cứu
147 bệnh nhân viêm tiểu phế quản, điều trị tại khoa Hô hấp, bệnh viện Nhi Trung ương từ 1/1/2010 đến 31/3/2010.
2. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
T rẻ được chẩn đoán VTPQ dựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán của SIGN (Scottish Inter- collegiate Guidelines Network) 2006 [4]: tuổi thường dưới 24 tháng, bệnh cấp tính 1 -3 ngày, ho, sốt, viêm long đường hô hấp trên, chảy mũi, ho, thở nhanh, co kéo cơ hô hấp, khò khè, phổi có ran rít, ran phế quản, khó thở, ngừng thở ở trẻ nhỏ; Xét nghiệm máu: bạch cầu trong máu bình thường (dưới 10000 tế bào), CRP không tăng (CRP < 6), Phim Xquang phổi: không có tổn thương nhu mô phổi.
Chẩn đoán mức độ nặng của VTPQ theo SIGN 2006 (4): trẻ ăn kém (< 50% lượng thức ăn/24 giờ); ngủ gà/lơ mơ; có/đã có cơn ngừng thở; nhịp thở > 70 lần/phút; cánh mũi phập phồng và/hoặc thở rên; rút lõm lồng ngực nặng; tím tái.
Chẩn đoán mức độ suy hô hấp theo WHO 1994:
Nhẹ: không suy hô hấp: SaO2 > 95%
Trung bình: có suy hô hấp SaO2 : 90 – 94%
Nặng: suy hô hấp nặng: SaO2 < 90%.
Tuổi từ 2 tháng đến 24 tháng.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích