Ghép tế bào gốc tuỷ xương tự thân điều trị khớp giả thân xương chày
Khớp giả thân xương chày là những diễn biến bất thường sau gãy xương với tỷ lệ 2 – 3%, do nhiều nguyên nhân gây nên. Việc điều trị không đơn giản, đôi khi phải cần đến nhiều phẫu thuật khác nhau, thời gian nằm viện kéo dài, có thể để lại nhiều di chứng nặng nề, thậm chí phải cắt cụt chi. Ghép xương để điều trị khớp giả xương chày đạt được tỷ lệ liền xương từ 70 – 95%, thường phối hợp với mở ổ gãy và kết hợp xương bên trong. Tuy nhiên, phẫu thuật lấy và ghép xương không phải là không có những biến chứng tại nơi lấy xương hoặc tại ổ gãy [4].
Những năm gần đây tế bào gốc được nghiên cứu nhiều và đạt được kết quả đầy hứa hẹn trong y học nhờ khả năng sử dụng tế bào gốc để thay thế tế bào bị tổn thương. Khả năng tạo xương của tuỷ xương được Goujon mô tả lần đầu vào năm 1869. Từ những năm 1960 nhiều nghiên cứu cho thấy tế bào gốc ở tuỷ xương tạo ra hiệu quả sinh học của xương xốp và được áp dụng để tăng cường đặc tính tạo xương bằng cách trộn xương ghép với tuỷ xương lấy được trong quá trình phẫu thuật [3]. Năm 1991, Connolly lần đầu tiên ghép trực tiếp tuỷ xương tự thân để điều trị khớp giả thân xương chày cho kết quả liền xương tốt [4]. . Hernigou (2005) báo cáo 60 trường hợp khớp giả thân xương chày được ghép tuỷ xương tự thân đạt tỷ lệ liền xương là 88,3%, cho thấy đây là một phương pháp ít xâm lấn, đơn giản và hiệu quả [6]. Tuy nhiên, các nghiên cứu ứng dụng ghép tuỷ xương điều trị khớp giả tại Việt Nam chưa được thực hiện. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu:
Ghép tế bào gốc tuỷ xương tự thân điều trị khớp giả thân xương chày nhằm bước đầu đánh giá kết quả điều trị khớp giả thân xương chày bằng ghép tế bào gốc tuỷ xương tự thân.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm những bệnh nhân trên 18 tuổi được chẩn đoán khớp giả chặt thân xương chày sau kết hợp xương hoặc điều trị bảo tồn bằng bột tại khoa Chấn thương Chỉnh hình, bệnh viện Việt Đức từ năm 2006.
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lấy khối tế bào gốc từ tuỷ xương: bệnh nhân được gây tê tuỷ sống. Tuỷ xương được lấy khoảng 250 ml từ mào chậu sau hai bên bằng kim lấy tuỷ đường kính 2,4 mm, chống đông bằng heparin. Khối tế bào đơn nhân có chứa tế bào gốc của tủy xương được tách bằng phương pháp ly tâm tỷ trọng, huyền dịch trong nước muối sinh lý với một thể tích cuối cùng hằng định là 30 mL và được xét nghiệm xác định thành phần, số luợng tế bào, tế bào gốc CD34 (+) tại khoa Huyết học, bệnh viện Trung Ương Quân đội 108.
Kỹ thuật ghép: khối tế bào gốc được ghép cho bệnh nhân trong vòng 10 giờ kể từ sau khi lấy tủy.
Xác định ổ khớp giả thân xương chày dựa trên lâm sàng (vị trí đau, sẹo mổ cũ, phim X quang) hoặc bằng màn huỳnh quang tăng sáng. 30 mL dịch có chứa khối tế bào gốc tuỷ xương được tiêm vào khe khớp giả và xung quanh đầu xương gãy bằng kim 18G, tốc độ 20 ml/ phút. Vị trí tiêm thường là bờ trước trong và ngoài mào chày, khi qua da cần tránh vào gân cơ, bó mạch thần kinh chính và hướng trực tiếp vào xương.
Theo dõi sau ghép: Phương tiện kết hợp xương được giữ nguyên hoặc bất động thêm bột nếu không đủ vững. Bệnh nhân không được phép tỳ trong tháng đầu sau tiêm để tránh sự gãy vỡ cơ học của quá trình liền xương và tái tạo mô. Sau 1 tháng nếu có can xương trên phim, bệnh nhân được phép tỳ một phần với nạng. Nếu can xương tiến triển tốt, tăng dần độ tỳ đến khi tỳ hoàn toàn từ tháng thứ hai. Nếu bệnh nhân không còn đau tại ổ gãy và trên phim có hình ảnh cầu can xương hoặc không còn thấy đường gãy ít nhất 3/4 vỏ xương, tháo bỏ bột hoặc khung cố định ngoài. Bệnh nhân được hướng dẫn tập phục hồi chức năng, khám lại và chụp X quang định kỳ sau ghép 4 tuần và hàng tháng đến khi xương liền để đánh giá tiến triển can xương.
Đánh giá kết quả: Liền xương được đánh giá dựa trên lâm sàng, X quang: bệnh nhân có khả năng đi lại, tỳ hoàn toàn và không đau khi ấn tại nơi gãy xương; hình ảnh can và liền xương trên phim thẳng và nghiêng. Nếu bệnh nhân không có dấu hiệu tiến triển liền xương sau khi ghép 6 tháng kết quả được coi như thất bại và cần tiến hành những phẫu thuật khác để đạt liền xương.
Những tế bào gốc của tủy xương với khả năng linh hoạt mềm dẻo của nó có thể được sử dụng để điều trị thay thế, sửa chữa những tổn thương của các tổ chức, cơ quan khác và như vậy chúng cũng có thể được sử dụng để làm liền các khớp giả. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả điều trị khớp giả thân xương chày bằng ghép tế bào gốc tuỷ xương tự thân. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 12 bệnh nhân khớp giả thân xương chày được chẩn đoán và điều trị tại bệnh viện Việt Đức; mỗi bệnh nhân được lấy 250 mL tuỷ xương, tách, cô đặc tế bào bằng phương pháp ly tâm tỷ trọng, rửa rồi huyền dịch trong 30 mL nước muối sinh lý và tiêm cho bệnh nhân tại vị trí khớp giả. Bệnh nhân được theo dõi, đánh giá kết quả liền xương trên lâm sàng và X quang với thời gian tối thiểu 6 tháng. Kết quả: Không có biến chứng xẩy ra tại nơi lấy và ghép tuỷ xương. Trung bình 5,65 ± 3,74 x 106 (0,95 – 11,73 x 106) tế bào gốc CD34 (+) được ghép cho bệnh nhân. Tỷ lệ liền xương đạt được ở 11/12 bệnh nhân (91,7%) với thời gian trung bình 15,3 tuần (9 – 30 tuần). Kết luận: Ghép tế bào gốc tuỷ xương tự thân điều trị khớp giả thân xương chày là một phương pháp ít xâm lấn, đơn giản, an toàn và hiệu quả với tỷ lệ liền xương cao.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích