Giá trị chẩn đoán nguyên nhân vi khuẩn của một số triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng trong viêm phổi trẻ em

Giá trị chẩn đoán nguyên nhân vi khuẩn của một số triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng trong viêm phổi trẻ em

Nghiên cứu giá trị chẩn đoán nguyên nhân vi khuẩn của các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng thường gặp ở bệnh nhi viêm phổi. Đối tượng, phương pháp: 146 bệnh nhân viêm phổi, 92 trai, 54 gái, tuổi từ 2 đến 60 tháng, có thời gian bị bệnh trung bình trước khi vào viện là 6,0 ± 4,6 ngày, trong đó có 46 bệnh nhân (31,5%) có kết quẩ cấy dịch tỵ hầu dương tính trong thời gian từ 1/1/2010 đến 30/9/2010 tại khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: Khi SLBC > 16,2 G/L, giá trị chẩn đoán của BC đã có sự khác biệt giữa 2 nhóm vi khuẩn âm tính và vi khuẩn dương tính với (p < 0,05). Giá trị chẩn đoán của BC cao nhất khi SLBC >17,5 G/L (p < 0,05), với độ đặc hiệu và giá trị tiên đoán âm tính khá cao, có thể có giá trị để phân biệt nhiễm khuẩn và không nhiễm khuẩn. Phối hợp triệu chứng ran ẩm nhỏ hạt trên lâm sàng với tăng bạch cầu trên 17,5 G/L có thể làm tăng thêm khả năng chẩn đoán viêm phổi do nguyên nhân vi khuẩn. Kết luận: Kết quẩ nghiên cứu này cho thấy có rất ít triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng có giá trị chẩn đoán phân biệt viêm phổi vi khuẩn với các nguyên nhân viêm phổi khác.

Viêm phổi (VP) là một trong những bệnh thường gặp nhất ở trẻ em. Bệnh có xu hướng gia tăng và là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ nhỏ. Hàng năm có khoảng 4 triệu trẻ em tử vong do VP. Ở Việt Nam, Nguyễn Thu Nhạn và cộng sự (2001) thấy tỉ lệ tử vong do VP đứng đầu các bệnh lý về hô hấp (70%) và chiếm 30-35% tử vong chung. Có nhiều căn nguyên gây VP ở trẻ em, nhưng ở các nước đang phát triển, căn nguyên chủ yếu vẫn là vi khuẩn, chiếm khoảng 75% [3,4,6,10]. Ở Việt Nam, các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy tỷ lệ VP phải điều trị bằng kháng sinh vẫn còn rất cao [4,7]. Trong thực hành lâm sàng, việc chẩn đoán VP do vi khuẩn còn gặp nhiều khó khăn. Một số tác giả đã cố gắng tìm kiếm các xét nghiệm thích hợp có giá trị phân biệt VP vi khuẩn với các nguyên nhân khác [1,3,5,8,10]. Tuy nhiên, cho đến nay, các thầy thuốc lâm sàng vẫn phải dựa chủ yếu vào kinh nghiệm lâm sàng mà chưa có nhiều chứng cớ đáng tin cậy để ra quyết định điều trị. Vì vậy, đề tài được thực hiện với mục tiêu: “khảo sát giá trị chẩn đoán nguyên nhân vi khuẩn của một số triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng thường gặp ở bệnh nhi viêm phổi”, nhằm góp phần giúp các thầy thuốc thêm chứng cớ trong chẩn đoán viêm phổi do căn nguyên vi khuẩn có cơ sở khoa học hơn.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng là tất cả bệnh nhi từ 2 tháng đến 5 tuổi được chẩn đoán VP theo tiêu chuẩn của WHO dựa vào triệu chứng lâm sàng: ho, sốt, thở nhanh, co rút lồng ngực, tím tái, nghe phổi có ran ẩm nhỏ hạt, có kết quả vi khuẩn học, điều trị tại khoa Nhi, bệnh viện Bạch Mai từ 1/1/2010 đến 30/9/2010. Bệnh nhi bị VP nhưng kèm theo các bệnh lý khác hoặc không có kết quả xét nghiệm vi khuẩn được loại khỏi nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu mô tả tiến cứu, chọn mẫu thuận tiện với cỡ mẫu tối đa trong thời gian nghiên cứu. Biến nghiên cứu gồm tuổi, giới, thời gian bị bệnh, điều trị kháng sinh trước khi tới viện, triệu chứng lâm sàng thường gặp (sốt, tần số thở, rút lõm lồng ngực, ran ẩm nhỏ hạt) và các xét nghiệm cận lâm sàng phổ biến (CRP, bạch cầu, bạch cầu đa nhân trung tính). Kết quả vi khuẩn học cấy đếm dịch tỵ hầu theo tiêu chuẩn của WHO, những trường hợp số lượng vi khuẩn trên 103FCU/1ml được coi là dương tính (tiến hành tại khoa Vi sinh y học, bệnh viện Bạch Mai) qua nuôi cấy dịch tỵ hầu được sử dụng làm tiêu chuẩn vàng để đánh giá giá trị chẩn đoán nhiễm vi khuẩn của các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng ở trẻ VP. Tính độ nhậy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương tính, giá trị tiên đoán âm tính và thuật toán X2 để đánh giá giá trị chẩn đoán.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment