Giá trị chẩn đoán và theo dõi sau mổ của ca19-9 đói với ung thư tụy ngoại tiết
Đánh giá hiệu quả của chất chỉ điểm khối u CA19-9 trong chẩn đoán và theo dõi sau mổ ung thư tụy ngoại tiết (UTTNT). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả, khảo sát nồng độ CA19-9 trên những BN nghi ngờ là UTTNT, xác định độ nhậy (Se), độ đặc hiệu (Sp), độ chính xác (Acc.) của BN trước mổ (chuẩn vàng: adenocarrcinome trên kết quả GPBH) và sau mổ. Két quà: 132 BN trên lâm sàng và siêu âm có dấu hiệu nghi ngờ ung thư tuỵ được định lượng CA19-9 huyết thanh, sau đó đối chiếu với kết quả phẫu thuật và GPBH. Đã xác định được 76 trường hợp là ung thư biểu mô tuyến ống tuỵ (adenocarcinoma) và 56 trường hợp không phải là ung thư tuỵ. Nồng độ CA19-9 trung bình của 76 BN ung thư tuỵ là 3609,1 ± 10178,6 (n=76). Nếu lấy giá trị ngưỡng (cut-off value) là 75 Ul/ml thì độ nhậy của xét nghiệm là 69,7%, độ đặc hiệu là 67,8% và giá trị tiên đoán dương tính là 74,6%. Sau mổ cắt u, CA19-9 giảm mạnh từ 90 – 93% so với mức trước mổ (p < 0,05). Két luận: Nồng độ CA19-9 trước mổ ở BN UTTNT trung bình là khá cao so với bình thường (3609 U/ml). Xác định CA19- 9/huyết thanh là biện pháp tốt giúp chẩn đoán UTTNT trước mổ với độ nhậy 70%, độ đặc hiệu 68%. Vai trò cảnh báo tái phát sau mổ UTTNT ở nghiên cứu này chưa được chứng minh một cách thuyết phục.
Ung thư tuỵ ngoại tiết là một bệnh nặng, khó xác định chẩn đoán và thường mổ ở giai đoạn muộn, khi các triệu chứng lâm sàng đã quá rõ ràng. Bên cạnh các phương tiện chẩn đoán hình ảnh và nội soi, từ gần 10 năm nay chúng tôi đã đưa vào sử dụng phương pháp định lượng chất chỉ điểm khối u CA19-9 trong huyết thanh bệnh nhân để chẩn đoán ung thư tuỵ. CA19-9 là một kháng nguyên cacbonhydrat lacto-N-Fucopantose II. Kháng nguyên này sinh ra từ nhiều loại tế bào ung thư, lưu hành trong huyết tương. Cho đến nay, CA19-9 là một chỉ điểm khối u được lựa chọn nhiều nhất trong ung thư tuỵ để phát hiện, chẩn đoán và nhất là theo dõi kết quả cũng như dấu hiệu tái phát sớm sau điều trị phẫu thuật.
Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu: Đánh giá vai trò của chỉ điểm khối u CA19-9 trong chẩn đoán và theo dõi điều trị đối với ung thư tuỵ ngoại tiết.
II. ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Những bệnh nhân trên lâm sàng và siêu âm nghi ngờ là ung thư tuỵ, không giới hạn tuổi, giới, có những triệu chứng và dấu hiệu gợi ý như đau bụng gầy sút, hội chứng vàng da tắc mật thấp, siêu âm có hình ảnh đường mật giãn đến phần thấp ống mật chủ, hình ảnh tuỵ gợi ý đến một khối u. Một số bệnh nhân không có triệu chứng vàng da tắc mật nhưng trên siêu âm hoặc chụp cắt lớp vi tính ổ bụng thấy hình ảnh khối u thuộc tuỵ (đầu, thân hoặc đuôi tuỵ).
2. Phương pháp
Tất cả mọi bệnh nhân nghi ngờ ung thư tuỵ được làm xét nghiệm định lượng nồng độ CA19-9 trước mổ: Lấy 3ml máu không chống đông ly tâm, tách huyết thanh và bảo quản ở 200C trong khi chờ đủ số bệnh nhân để mở một “Kit” thuốc thử. Định lượng CA19-9 trong huyết thanh bằng kỹ thuật ELISA hai giai đoạn theo nguyên tắc sandwich trên ống phản ứng plastic có gắn streptavidin [4;5]. Kỹ thuật có tính đặc hiệu và độ nhậy rất cao nhờ sử dụng 2 kháng thể đơn dòng là kháng thể kháng CA19-9 gắn Biotin và kháng thể gắn enzym peroxydase. Xét nghiệm được tiến hành trên máy ES-33 của hãng Boehringer Mannheim tại khoa Sinh hoá, bệnh viện Việt Đức, Kit enzymum-Test CA19-9 cũng của hãng Boehringer Mannheim. Kết quả định lượng được tính bằng đơn vị quốc tế trên mililit (Ul/ml). Các kết quả xét nghiệm sẽ được đối chiếu với chẩn đoán sau mổ, xét nghiệm mô bệnh học. Xử lý thống kê: Giá trị chẩn đoán của CA19-9 đối với ung thư được đánh giá qua các thông số: Độ nhậy (Se), độ đặc hiệu (Sp), và giá trị dự báo dương tính (PVV) với chuẩn vàng là kết quả xét nghiệm mô bệnh học.
III. KẾT QUẢ
132 bệnh nhân trên lâm sàng và siêu âm có dấu hiệu nghi ngờ là ung thư tuỵ (đau bụng, sút cân, u bụng, vàng da tắc mật, siêu âm có hình ảnh u tuỵ…) đã được làm xét nghiệm định lượng CA19-9, sau đó đối chiếu với kết quả phẫu thuật và/hoặc kết quả GPBH để biết là có ung thư tuỵ hay không phải ung thư tuỵ. Một số bệnh nhân trong số những bệnh nhân là ung thư tuỵ, sau mổ được làm lại xét nghiệm CA19-9 để đánh giá sự thay đổi của xét nghiệm này qua thời gian theo dõi. Dưới đây là những kết quả cụ thể chúng tôi thu được qua nghiên cứu này.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích