GIÁ TRỊ CỦA CÁC KỸ THUẬT QUAN SÁT TRỰC TIẾP, KATO – KATZ VÀ SASA TRONG CHẨN ĐOÁN NHIỄM GIUN MÓC, GIUN LƯƠN

GIÁ TRỊ CỦA CÁC KỸ THUẬT QUAN SÁT TRỰC TIẾP, KATO – KATZ VÀ SASA TRONG CHẨN ĐOÁN NHIỄM GIUN MÓC, GIUN LƯƠN

 GIÁ TRỊ CỦA CÁC KỸ THUẬT QUAN SÁT TRỰC TIẾP, KATO – KATZ VÀ SASA TRONG CHẨN ĐOÁN NHIỄM GIUN MÓC, GIUN LƯƠN

Nhữ Thị Hoa , Nguyễn Kiều Trinh , Nguyễn Thế Hùng , Hồ Thanh Phong TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu : xác định giá trị của các phương pháp quan sát trực tiếp (QSTT), Kato-Katz
(KK), Sasa (SS) trong chẩn đoán nhiễm giun móc, giun lươn ở học sinh cấp 1 & 2 huyện Củ Chi,
Tp. HCM.
Phương pháp : nghiên cứu được tiến hành theo thiết kế mô tả cắt ngang trên 2.778 trẻ học cấp 1 & 2 huyện Củ Chi, TP. HCM được chọn từ phương pháp mẫu cụm một bậc (cụm = xã). Mỗi mẫu phân được xét nghiệm bằng quan sát trực tiếp, Kato-Katz, cấy phân Sasa và so sánh với tiêu chuẩn vàng là tập hợp hội các kết quả dương tính của ba kỹ thuật đối với giun móc, của hai kỹ thuật quan sát trực tiếp và Sasa đối với giun lươn. Độ nhạy (Sp), giá trị tiên đoán âm (PV-), trung bình thời gian tiêu biến trứng, tỉ lệ nhiễm, trung bình cường độ nhiễm được phân tích bằng Stata 8.0 ở ở mức tin cậy 95%, OR[KTC 95%].
Kết quả : tỉ lệ nhiễm và trung bình nhân số trứng trong 1 gram phân là 33,87% và 3,89 [3,5 – 4,3] với mức độ nhiễm trung bình-nặng là 4,52%. Nhìn chung, trong chẩn đoán giun móc, QSTT, KK và SS có độ nhạy lần lượt là 40,4%, 68,9%, 56,4% và giá trị tiên đoán dương là 76,6%, 86,2°% 81,8%. Trong cộng đồng nhiễm nhẹ, KK nhạy gấp 2,38 và 1,40 lần QSTT và SS; do đó khi phối hợp, cặp KK-SS và KK-QSTT cho kết quả cao hơn SS-QSTT 1,57 và 2,17 lần. Ở nhóm nhiễm nặng, QSTT và SS phát hiện giun móc mạnh gấp KK 3,08 lần và 5 lần; cặp SS-QSTT hiệu quả hơn 5,91 và 4,26 lần so với cặp KK-QSTT và KK-SS.
Thời gian thích hợp để đọc tiêu bản KK sau khi chuẩn bị hoàn tất là 30 – 45 phút, nếu vượt quá, trứng có thể tiêu biến theo dạng tiêu phôi (75,53%) hoặc teo nhỏ (27,47%). Đối với giun lươn, cấy phân SS nhạy hơn QSTT 9,6 [3,84 -30,9] lần (21,3% so với 91,8%).
Kết luận và kiến nghị : mẫu khảo sát thuộc cộng đồng nhiễm giun móc nhóm III và nhiễm giun lươn nhẹ. Phối hợp QSTT mẫu phân cố định với kỹ thuật KK là lựa chọn ưu tiên để phát hiện bệnh trong vùng nội dịch giun móc và giun lươn tại Việt Nam. Ở bệnh viện, nên khuyến cáo sử dụng cấy phân Sasa đối với cơ địa cần điều trị corticoides kéo dài nhưng nghi ngờ bị nhiễm giun lươn. Thời gian tối ưu từ lúc chuẩn bị hoàn tất tiêu bản KK đến khi được phép đọc là 30 – 45 phút với điều kiện nhiệt độ phòng khoảng 28oC – 29oC.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh giun móc và giun lươn là vấn đề sức khỏe cần quan tâm vì tính phổ biến cũng như tác hại của bệnh. Nhiễm giun móc có thể gây thiếu máu thiếu sắt, dẫn đến chậm phát triển tâm thần vận động ở trẻ em, gây sẩy thai, sanh non ở phụ nữ mang thai. Đối với giun lươn, nếu không điều trị, chu trình tự nhiễm sẽ tạo điều kiện cho bệnh tồn tại suốt đời sống của ký chủ và khi cơ thể giảm sức đề kháng, mầm bệnh sẽ xâm lấn nhiều cơ quan, đe dọa tính mạng bệnh nhân, nhất là khi sử dụng corticoid dài ngày.
Trên thế giới, khoảng 900 triệu người nhiễm giun móc, 100 – 200 triệu người nhiễm giun lươn [17]. Tại Việt Nam, nhiễm giun móc dao động từ 3% – 70% [4], nhưng chưa có một khảo sát qui mô nào về bệnh giun lươn trên toàn quốc. Củ Chi, một huyện ngoại thành Tp. HCM, chủ yếu là đất nông nghiệp, điều kiện thổ nhưỡng và các hành vi nguy cơ của cộng đồng thích hợp cho giun móc, giun lươn tồn tại : khoảng 33,86% – 48,2% dân cư dương tính với giun móc [1,12] và 2% – 12,6% nhiễm giun lươn[7,8].
Hiện nay, chương trình phòng chống giun sán đang được triển khai trên diện rộng, việc đánh giá trước và sau can thiệp cần phải có kỹ thuật xét nghiệm phù hợp: độ nhạy cao, giá thành rẻ và thực hiện dễ dàng, tiện lợi. Một số kỹ thuật đáng tin cậy như cấy phân trên dĩa thạch, ELISA, PCR…, tuy nhiên, giá thành đắt và không khả thi trong điều tra dịch tễ. Tổ chức Y Tế Thế Giới (TCYTTG) khuyến cáo sử dụng phương pháp Kato-Katz (KK) để đánh giá nhiễm giun móc trong cộng đồng vì khả năng định lượng mật độ nhiễm, chi phí phù hợp[3,10], tuy nhiên, phải xét nghiệm ngay sau khi thu thập mẫu phân và không thể phát hiện giun lươn. Kỹ thuật cấy Sasa (SS) có thể tầm soát 2 loại giun này, độ nhạy cao, nhưng phức tạp hơn và đòi hỏi thời gian[7,15,16]. Kỹ thuật đơn giản, ít tốn kém, có thể chủ động về thời gian là quan sát trực tiếp (QSTT) mẫu phân đã cố định
nhưng lại kém nhạy hơn[5,9,14].
Vì vậy, vấn đề đặt ra là sự khác biệt về giá trị giữa quan sát trực tiếp, Kato-Katz và SaSa trong chẩn đoán nhiễm giun móc, giun lươn như thế nào? Từ đó có thể lựa chọn phương pháp xét nghiệm phù hợp trên từng cộng đồng, hỗ trợ cho việc thực hiện các chương trình can thiệp.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment