GIÁ TRỊ CỦA ĐIỆN TIM TRONG CHẨN ĐOÁN TẮC ĐỘNG MẠCH PHỔI CẤP
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác đinh giá trị của các dấu hiệu điện tim trong chẩn đoán tắc động mạch phổi. Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên các bệnh nhân nghi ngờ tắc động mạch phổi cấp (TĐMP) từ tháng 12 năm 2006 đến tháng 3 năm 2012 tại bệnh viện Bạch Mai. Nghiên cứu đã thu thập được 141 trường hợp, với 57/141 (40,4%) bị tắc động mạch phổi. Trong đó, thay đổi điện tim ở bệnh nhân tắc động mạch phổi cấp bao gồm dấu hiệu S1Q3T3: 28,1%, nhịp nhanh xoang (> 100 ck/phút): 26,3%, T âm V1 – 3: 5,3% và nhịp bình thường: 36,8%. Dấu hiệu S1Q3T3 chẩn đoán tắc động mạch phổi cấp có độ nhạy: 28%, độ đặc hiệu: 92,9%, giá trị chẩn đoán dương tính: 72,7%, giá trị chẩn đoán âm tính: 65,6% và OR: 5,1. Sự khác biệt về tỷ lệ S1Q3T3 ở hai nhóm tắc động mạch phổi cấp huyết động không ổn định và ổn định không có ý nghĩa thống kê. Thay đổi điện tim thường gặp nhất ở bệnh nhân tắc động mạch phổi là S1Q3T3, nhịp nhanh xoang, T âm V1 – 3. Dấu hiệu S1Q3T3 có ý nghĩa trong chẩn đoán tắc động mạch phổi. Dấu hiệu S1Q3T3 chưa chứng minh được vai trò tiên lượng rối loạn huyết động ở bệnh nhân tắc động mạch phổi.
Tắc động mạch phổi cấp là một cấp cứu thường gặp, tỷ lệ tử vong có thể đến 30% nhưng nếu được chẩn đoán và điều trị kịp thời tỷ lệ này giảm xuống còn 2 – 8% các trường hợp. Nguyên nhân tử vong chủ yếu là do tắc động mạch phổi cấp tái phát trong những giờ đầu tiên, dẫn đến hiện tượng “tâm phế cấp”.
Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều phương pháp điều trị hiện đại như thuốc chống đông mới, thuốc tiêu sợi huyết, lấy huyết khối qua catheter, phẫu thuật… có thể cứu sống bệnh nhân tắc động mạch phổi cấp. Vì thế, tiếp cận chẩn đoán tắc động mạch phổi cấp sớm là yêu cầu cấp thiết trong thực hành lâm sàng.
Tuy nhiên chẩn đoán tắc động mạch phổi cấp gặp nhiều khó khăn vì bệnh cảnh lâm sàng thay đổi giữa các cá thể. Trong nghiên cứu PIOPED, triệu chứng lâm sàng thường gặp trong tắc động mạch phổi cấp có thể gặp là khó thở, đau ngực, ngất, ho ra máu, nhịp tim nhanh, nhịp thở nhanh, giảm SpO2, dấu hiệu huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới. Tuy nhiên, các triệu chứng này đều có thể gặp ở các bệnh nhân không tắc động mạch phổi cấp. Bên cạnh triệu chứng không đặc hiệu như trên cùng các yếu tố nguy cơ thuyên tắc huyết khối, các thang điểm lâm sàng thì điện tim là thăm dò cận lâm sàng cơ bản đầu tiên được thực hiện trong quá trình chẩn đoán. Ngoài việc giúp loại trừ những nguyên nhân khác như nhồi máu cơ tim ST chênh, sóng Q, rối loạn nhịp tim, theo khuyến cáo của Hội tim mạch châu Âu thì điện tim có thể ghi nhận một số dấu hiệu tăng gánh thất phải cấp như T âm ở V1 đến V4, S1Q3T3 (sóng S ở D1, sóng Q sâu ở D3, với biên độ trên 0,15 mv hay 1,5 mm, phối hợp với sóng T âm ở D3) có thể có ý nghĩa chẩn đoán tắc động mạch phổi cấp ở giai đoạn sớm [1 Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có một nghiên cứu nào được công bố về vấn đề này. Do vậy chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu xác định giá trị của các dấu hiệu điện tim trong chẩn đoán tắc động mạch phổi cấp.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất