Giá trị của huyết thanh học trong chẩn đoán nhiễm helicobacter pylori ở trẻ em theo vị trí tổn thương dạ dày tá tràng và lứa tuổi

Giá trị của huyết thanh học trong chẩn đoán nhiễm helicobacter pylori ở trẻ em theo vị trí tổn thương dạ dày tá tràng và lứa tuổi

Helicobacter pylori (HP) ngày nay đã được chứng minh là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh lý mạn tính tại dạ dày – tá tràng (7,10). Vì vậy, việc xác định nhiễm HP tại dạ dày để tiêu diệt HP nhằm điều trị khỏi viêm, loét dạ dày tá tràng và phòng tiến triển tới ung thư dạ dày là rất cần thiết [10]. Ngày càng có nhiều nghiên cứu xác nhận vai trò của phương pháp huyết thanh học (HTH) trong chẩn đoán và theo dõi hiệu quả điều trị diệt HP, đặc biệt là ở các nước nghèo [3, 5, 6, 8, 9]. Tuy nhiên, người ta cũng thấy rằng giá trị chẩn đoán của HTH thay đổi tuỳ theo tuổi của bệnh nhân và theo sự khu trú của các tổn thương tại đường tiêu hoá [1, 3, 9]. Ở Việt Nam hiện nay, việc chẩn đoán nhiễm HP vẫn  còn  gặp  nhiều  khó  khăn  do  còn  rất  ít phương tiện chẩn đoán, chủ yếu dựa vào kết quả test nhanh urease (CLO – test) và mô bệnh học. Việc sử dụng HTH vào mục đích chẩn đoán trên lâm sàng chưa được nghiên cứu nhiều. Vì vậy,
mục tiêu:
1.    Đánh giá giá trị  của HTH  trong  chẩn đoán nhiễm HP ở trẻ em có hội chứng dạ dày.
2.    Xem xét nồng độ kháng thể IgG  kháng HP theo vị trí tổn thương và theo lứa tuổi.
II.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là một nghiên cứu tiến cứu mù đôi trong đó thầy thuốc lâm sàng không biết kết quả xét nghiệm về tình trạng nhiễm HP và thầy thuốc cận lâm sàng đều không biết tình trạng bệnh lý của bệnh nhân cho đến khi phân tích kết quả. Bệnh nhân trong nghiên cứu gồm 78 trẻ (44 trai, 34 gái) tuổi từ 5 đến 15 (tuổi trung bình là 10,5 ± 2,3 năm), được chẩn đoán lâm sàng là có hội chứng dạ dày – tá tràng và có kết quả nội soi tiêu hoá trên được tiến hành tại phòng nội soi tiêu hoá bệnh viện Nhi Trung Ương hoặc bệnh viện Bạch Mai từ tháng 2 – 2001 đến tháng 8 – 2002. Những bệnh nhi đã được điều trị diệt HP trong vòng 6 tháng hoặc đã dùng bất cứ kháng sinh hay thuốc chống bài tiết dịch vị nào trong vòng 4 tuần trước đều được loại khỏi nghiên cứu. Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu này và gia đình đều được thông báo và đồng ý tham gia nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu đã được hội đồng đạo đức nghiên cứu của trường ĐHYHN chấp thuận.
Tổn thương đại thể trên nội soi được các bác sỹ nội soi tiêu hoá phân loại theo hình thái tổn thương theo cách phân loại của hệ thống Sydney có sửa chữa (Dixon MF, Genta RM, Yardley JH, Correa P. Classification and grading of gastritis. The updated Sydney System. International Workshop on the Histopathology of Gastritis, Houston, 1994. Am J Surg Pathol 1994;20:1161
– 81.). Mỗi bệnh nhân được sinh thiết 2 mẫu tại môn vị (và một mẫu thân vị nếu có tổn thương tại đó) để xét nghiệm bằng test urease (CLO – test, Delta West, Australia, đọc kết quả sau 20 phút và kiểm tra lại sau 2 giờ). Xét nghiêm xác định tổn thương mô bệnh học (MBH) qua nhuộm hematoxylin và eosin (HE) đồng thời tìm HP bằng nhuộm Giemsa được tiến hành tại bộ môn Giải phẫu bệnh, trường Đại học Y Hà Nội (PGS
Trần Văn Hợp). Xét nghiệm huyết thanh học version 10.1 Copyright SPSS Inc., SAS Institute, CA, USA, 1998). Test X2  được dùng để so sánh sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm HP, test t – student dùng để so sánh nồng độ IgG kháng HP theo vị trí tổn thương và theo nhón tuổi, với giá trị p 2 phía < 0,05 được coi là có ý nghĩa. Giá trị chẩn đoán của HTH được tính toán theo phương pháp cổ điển.
Mục tiêu: Đánh giá tỷ lệ nhiễm Helicobacter pylori (HP) và giá trị chẩn đoán của phương pháp huyết thanh học (HTH) trong chẩn đoán nhiễm HP theo vị trí tổn thương trên nội soi và theo nhóm tuổi. Đối tượng và phương pháp: Tỷ lệ nhiễm HP và giá trị chẩn đoán của phương pháp HTH (ELISA) được phân tích dựa vào tiêu chuẩn vàng là kết quả xét nghiệm mô bệnh học và test nhanh urease (CLO – test) qua mẫu sinh thiết dạ dày của 78 bệnh nhi có biểu hiện bệnh lý dạ dày – tá tràng và so sánh theo vị trí tổn thương và theo nhóm tuổi. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm HP ở nhóm trẻ có triệu chứng dạ dày tá tràng là 67,4% (31/46). Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị chẩn đoán dương và âm, và độ chính xác của HTH theo thứ tự : 74,4%, 73,3%, 85,7%, 61,1% và 76,1%. Trong số 25 bệnh nhi bị viêm dạ dày đơn thuần, 16 (64%) có HP(+) so với 78,6% (11/14) ở bệnh nhi có tổn thương tá tràng (p > 0,05). 15/27 bệnh nhi tuổi từ 5 – < 10 có HP(+) (55,6%) so với 13/19 ở nhóm 10 – 15 tuổi (68,4%) (p > 0,05). Trong số bệnh nhi HP(+), nồng độ kháng thể kháng HP ở nhóm có tổn thương tá tràng là 0,305 ± 0,034 so với 0,202 ± 0,018 ở nhóm chỉ tổn thương đơn thuần dạ dày (p = 0,007). Kết luận: Chưa thấy khác biệt rõ rệt về tỷ lệ nhiễm HP theo vị trí tổn thương và theo nhóm tuổi của bệnh nhi có hội chứng dạ dày. Tuy nhiên, nồng độ kháng thể ở nhóm có tổn thương tá tràng cao hơn hẳn ở nhóm chỉ có tổn thương dạ dày. Giá trị chẩn đoán của HTH trong nhóm đối tượng này là rất thấp, chưa thể sử dụng để xác định nhiễm HP

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment