Giá trị của scc – ag/huyết thanh của các bệnh nhân ung thư cổ tử cung trước, trong và sau xạ trị

Giá trị của scc – ag/huyết thanh của các bệnh nhân ung thư cổ tử cung trước, trong và sau xạ trị

Mục tiêu: đánh giá nồng độ SCC – Ag trên những bệnh  nhân ung thư cổ tử cung trước, trong và sau điều trị và trên cơ sở đó có thể theo dõi tái phát và di căn của ung thư cổ tử cung sau điềutrị.  Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:nghiên cứu được thực hiện trên 70 bệnh nhân ung thư cổ tử cung tại bệnh viện K trong  2  năm  từ  2008  –  2009,  những  bệnh  nhân  này  được  theo  dõi  dọc  các triệu  chứng  lâm sàng và  xét nghiệm nồng độ SCC – Ag/ huyết thanh.  Kết quả:  nồng độ SCC – Ag huyết thanh giảm nhanh trong và sau điều trị, đồng hành với kết quả điều trị của bệnh nhân. Tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ SCC – Ag huyết thanh từ 2 ng/ml trở xuống (giá trị bình thường) tăng theo thời gian, cao nhất ở 3 tháng sau điềutrị (88,8%) và vẫn
duy trì ở mức cao 6 tháng sau điều trị (88,3%). Kết luận: nồng độ SCC – Ag huyết thanh là rất có giá trị trong việc theo dõi kết quả điều trị ung thư cổ tửcung.

Ung thư cổ tử cung là một bệnh rất phổ biếnở phụ  nữ,  đứng thứ  hai  sau ung  thư  vú, tỷ  lệ  mắc bệnh  tuỳ  thuộc  vào  từng  khu  vực  địa  lý.  Theo thống  kê  của  Pháp  và  Mỹ  tỷ  lệ  mắc  chuẩn  hoá theo tuổi là 17 – 25 trường hợp mắc/100.000 dân và ở Châu Mỹ La tinh và Châu Phi tỷ lệ nàylà 30 –  75  trường  hợp  mắc/100.000  dân  [1].  Tỷ  lệ  tử vong  của  ung  thư  cổ  tử  cung  ở  các  nước  công nghiệp phát triển đứng hàng thứ sáu trong tử vong ung thư. Tuổi trung bình của phụ nữ bị ung thư cổ tử cung từ 48 đến 52 tuổi [2].
Ở Việt Nam, theo số liệu từ ghi nhận ung thư Hà  Nội  cho  thấy  ung  thư cổ  tử  cung  đứng  hàngthứ ba trong số các ung thư ở phụ nữ, tỷ lệ tỷ lệ mắc  chuẩn  hoá  theo  tuổi  là  7,7  trường  hợp mắc/100.000  dân  [3].  Ngược  lại,  theo  ghi  nhận ung  thư  thành  phố  Hồ  Chí  Minh,  ung  thư  cổ  tử cung đứng hàng đầu trong các ung thư gặp ở nữ giới với tỷ lệ tỷ lệ mắc chuẩn hoá theo tuổi là 35 trường hợp mắc/100.000 dân. Theo báo cáo mới nhất về dịch tễ học, tỷ lệ mắc ung thư cổ tử cung ở thành phố Hồ Chí Minh cao gấp 4 lần so vớiở Hà Nội [4]. Để đánh giá khả năng tái phát và di căn sớm của  bệnh  nhân  ung  thư  cổ  tử  cung  một  số  nhànghiên  cứu  đã  đề  cập  đến  định  lượng  nồng  độ SCC – Ag huyết thanh (một chỉ điểm của ung thư cổ tử cung) trong tiên lượng, đánh giá kết quả và phát hiện di căn trong và sau điều trị ung thưcổ
tử cung. Các tái phát và di căn ung thư cổ tử cung đồng hành với việc tăng lên của nồng độ SCC- Ag  huyết  thanh.  Vì  vậy,  đề  tài  nghiên  cứu  này được thực hiện nhằm mục tiêu:
Đánh giá nồng độ SCC – Ag huyết thanh trên những  bệnh  nhân  ung  thư  cổ  tử  cung  trước,trong  và  sau  điều  trị  và  trên  cơ  sở  đó  có  thể theo  dõi  tái  phát  và  di  căn  của  ung  thư  cổ  tử cung sau điều trị.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment