GIÁ TRỊ CỦA X QUANG LỒNG NGỰC TRONG CHẨN ĐOÁN THUYÊN TẮC PHỔI

GIÁ TRỊ CỦA X QUANG LỒNG NGỰC TRONG CHẨN ĐOÁN THUYÊN TẮC PHỔI

 GIÁ TRỊ CỦA X QUANG LỒNG NGỰC TRONG CHẨN ĐOÁN THUYÊN TẮC PHỔI

Lê Thượng Vũ 
TÓM TẮT
Mở đầu: Làmộttrongnhững xét nghiệmcơbản trongtiếpcậnchẩn đoản cácbệnhnhân có nghingờ
thuyên tắc phôi, nghiên cứu thêm X quang lồng ngực có thể giúp cải thiện chẩn đoản thuyên tắc phôi (TTP).
Mục tiêu: Xác định liệu các bất thường X quang đơn lẻ kinh điển và các phôi hợp của chúng có giúp chẩn đoản xác định hoặc loại trừ thuyên tắc phôi.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 68 trong 197 bệnh nhân nghi ngờ thuyên tắc phôi tại khoa Phôi và khoa Tim mạch, BV Chợ Rẫy từ 8/2007 đến 10/2010, được phát hiện TTP bằng chụp mạch máu phôi cắt lớp. Các biểu hiện X quang ngực (XQN) được phân tích để tìm độ nhạy, độ chuyên; tỷ sô’khả dĩ dương LR(+), tỷ sô’ khả dĩ âm LR(-) ở toàn bộ bệnh nhân và các bệnh nhân không bệnh tim phôĩ trước.
Kết quả: Các bất thường XQN như bóng mờ tựa đáy vào màng phôi, lớn ĐM phôi, bất kỳ thương tôn mạch máu là các biến đôi X quang có tương quan có ý nghĩa với sự hiện diện TTP trên toàn bộ bệnh nhân và trên các bệnh nhân không bệnh tim phôi từ trước. Độ nhạy của các biểu hiện này trên toàn bộ bệnh nhân dao động giữa 14,7-68,8%, độ chuyên giữa 76,0-98,4%, LR (+) 2,26-9,19, LR(-) 0,54-0,87. Qua phân tích đa biến, bóng mờ tựa đáy vào màng phôi và bất kỳ thương tôn mạch máu có khả năng tiên lượng độc lập chẩn đoán TTP ở tất cả các bệnh nhân (tỷ sô’chênh lần lượt là OR=17,6, ĐTC95% 3,5-87,8 và OR=5,5, ĐTC95% 2,8-10,8); cũng như vớicác bệnhnhân khôngbệnhtim phôitừ trước(tỷsô’ chênhlầnlượt là OR=17,6; ĐTC95% 1,9¬
159,4 và OR=11,5; ĐTC95% 3,2-40,9).
Kết luận: X quang ngực có khả năng xác định bệnh thấp đến trung bình. XQN không giúp loại trừ TTP. Khi có biển đôi XQN hiện diện, xác suất lâm sàng mắc TTP gia tăng. XQN giúp định hướng các bước chẩn đoán và điều trị tiếp theo.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh thuyên tắc huyết khối bao gồm huyết khối tĩnh mạch và thuyên tắc phổi là thường gặp trên thế’ giói(1’18). Thuyên tắc phổi (TTP) thường chiếm 1/3 các trường hợp bệnh thuyên tắc huyết khối(2). Bệnh giải thích 1% số’ bệnh nhân nhập viện do mọi nguyên nhân(18). Tuy vậy, thuyên tắc phổi chỉ mới được báo cáo lẻ tẻ và hiện vẫn được coi là hiếm gặp tại Việt Nam(8’9’10’U).
Khác với TTP, nhiều dữ liệu ủng hộ huyết khối tĩnh mạch tại Việt nam có tần suất tương tự các nước phương tây(715). Leizorovicz phát hiện tần suất huyết khối tĩnh mạch ở các bệnh nhân đông nam châu á sau phẫu thuật cao tương tự các nước phương tây(7). Tần suất huyết khối tĩnh mạch không triệu chứng phát hiện qua một nghiên cứu tầm soát trên các bệnh nhân nội khoa có nguy cơ là tương tự các quốc gia trên thế’ giới(15). Các dữ liệu này cho phép nghĩ đến một giả thuyết: TTP không là bệnh hiếm gặp tại Việt Nam. Giả thuyết này có thể đứng vững vì thuyên tắc phổi là một bệnh khó chẩn đoán do các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu(1). Các nghiên cứu tại Việt Nam ghi nhận TTP thường được chẩn đoán trễ(8’9’1011). Như vậy chẩn đoán trễ hay bỏ sót chẩn đoán có thể là nguyên nhân khiến TTP nói riêng hoặc bệnh lý thuyên tắc huyết khối nói chung không được phát hiện đủ hơn là không có tại Việt Nam.
Là một trong những xét nghiệm cơ bản trong tiếp cận chẩn đoán các bệnh nhân khó thở hoặc đau ngực có nghi ngờ thuyên tắc phổi, X quang ngực (XQN) có thể’ giúp ích phát hiện hoặc loại trừ TTP(3). Trong y văn thế’ giới, XQN được xem là một phương tiện chẩn đoán sẵn có, rẻ tiền, đơn giản, bên giường bệnh nhưng được biết là kém nhạy và đặc hiệu(1). Vai trò XQN trong chẩn đoán thuyên tắc phổi ở Việt nam, nơi tần suất thuyên tắc phổi không cao thì chưa được biết(8,11). Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm xem xét liệu các bất thường XQN đơn lẻ và các phối hợp của chúng có giúp chẩn đoán xác đinh hoặc loại trừ TTP.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment