Giải trình tự toàn bộ vùng gen biểu hiện phát hiện đột biến gen CYBB gây u hạt mạn tính
Giải trình tự toàn bộ vùng gen biểu hiện phát hiện đột biến gen CYBB gây u hạt mạn tính
Cấn Thị Bích Ngọc1, Vũ Chí Dũng1
1 Bệnh viện Nhi Trung Ương
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Bệnh u hạt mạn tính là một nhóm các rối loạn di truyền không đồng nhất đặc trưng bởi khiếm khuyết của hệ thống enzymenicotinamide-adenine dinucleotide phosphate oxidase. Bệnh thường được chẩn đoán ở trẻ nhỏ với biểu hiện nhiễm trùng nấm hoặc vi khuẩn nặng nguy hiểm đến tính mạng. Nguyên nhân là do đột biến gen, có thể di truyền liên kết nhiễm sắc thể X hoặc di truyền lặn nhiễm sắc thể thường. Trong nghiên cứu này,chúng tôi mô tả các đặc điểm lâm sàng, hóa sinh và đột biến gen của hai bệnh nhân mắc bệnh CGD lần đầu tiên được chẩn đoán tại Việt Nam. Hai trẻ trai 15 tháng và 5,5 tháng từ hai gia đình khác nhau có biểu hiện viêm phổi kéo dài tái diễn từ giai đoạn sơ sinh, đáp ứng kém với điều trị. Cả hai bệnh nhân đều có tiền sử gia đình có anh họ hoặc em trai bị bệnh tương tự đã tử vong mà chưa có chẩn đoán xác định. Hai bệnh nhân này được giải trình tự toàn bộ vùng gen biểu hiện và phát hiện đột biến dị hợp tử c.141del (p.S48QfsX13) và c.1548G>A ( p.W516X) của gen CYBB trên nhiễm sắc thể X và mẹlà người mang gen. Hai bệnh nhân đáp ứng kém với điều trị và đều tử vong. Bệnh nhân mắc bệnh CGD do đột biến gen di truyền liên kết giới tính X thường xuất hiện bệnh sớm, tỷ lệ tử vong cao. Việc phân tích gen giúp chẩn đoán xác định bệnh, quyết định phương pháp điều trị và tư vấn di truyền.
Bệnh u hạt mạn tính (Chronic Granulomatous Disease-CGD) là một nhóm các rối loạn di truyền không đồng nhất đặc trưng bởi sự khiếm khuyết của hệ thống enzymenicotinamide-adenine dinucleotide phosphate (NADPH) oxidase. Bệnh biểu hiện bởi nhiễm vi khuẩn hoặc nấm nặng tái đi tái lại dẫn đến sự hình thành tổn thương viêm dạng u hạt. Bệnh thường được chẩn đoán ở trẻ nhỏ, đôi khi gặp ở giai đoạn sớm ở người lớn. Những bệnh nhân này thường biểu hiện bệnh rất sớm (thường giai đoạn sơ sinh), nhiễm trùng nấm hoặc vi khuẩn nặng nguy hiểm đến tính mạng.1 Các mầm bệnh phổ biến bao gồm các vi khuẩn như Enterobacteriaciae, Staphylococcus, Nocardia,các loại nấm như: Aspergillus, Candida hoặc vi khuẩn không điển hình Mycobacteria.2,3Các vi khuẩn khác bao gồm: Burkholderia và Chromobacterium violaceum. Bệnh có thể di truyền liên kết nhiễm sắc thể X, hoặc di truyền lặn nhiễm sắc thể thường. CGD di truyền liên kết NST X (XL-CGD) do đột biến gen mã hóa cho gp91phox chiếm 65-70% các trường hợp.4 Gen có tên là CYBB có kích thước 30 kb (Xp21.1). Các đột biến mất đoạn, lệch khung dịch mã, sai nghĩa, vô nghĩa và đột biến vùng cắt nối trên gen này đã được mô tả. CGD do di truyền lặn NST thường (AR-CGD) gặp ở 35% các trường hợp xảy ra do đột biến các thành phần khác của NADH oxidase (ngoại trừ đột biến p40phox và Rac chưa gây bệnh CGD) [bao gồm: p22phox, p67phox vàp47phox. Đối với các gen này, đột biến trội của gen p22phox chiếm 25% các trường hợp.
Nguồn: https://luanvanyhoc.com