Giám định phân tử loài sán lá gan lớn (fasciolaspp. ) gây bệnh ở dê tại Việt Nam
Bệnh sán lá gan lớn ở người và động vật chủ yếu do hai loài Fasciola hepatica và Fasciola gigantica (thuộc họ Fasciolidae) gây nên. Các loài động vật ăn cỏ: trâu, bò, dê, cừu… là loài cảm nhiễm với sán lá gan lớn (Fasciola spp.) tuy nhiên chúng cũng gây bệnh cho người. Tỷ lệ nhiễm bệnh sán lá gan rất cao gia súc ở gia súc và ở người tỷ lệ nhiễm bệnh này cũng gia tăng ở Việt Nam trong những năm gần đây. Để đánh giá sự biến đổi của hệ gen trong quần thể sán lá gan lớn (Fasciola spp.) gây bệnh trên đối tượng vật chủ khác nhau ở nước ta, chúng tôi đã khảo sát hai gen cox1 (cytochrome c oxidase subunit I), nad1 (nicotinamide dehydrogenase subunit I) thuộc hệ gen ty thể và ITS2 (internal transcribed spacer 2) thuộc hệ gen nhân (nuclear – rDNA) trên đối tượng gia súc là con dê. Kết quả giải trình trình tự của các gen khảo sát và so sánh với ngân hàng gen, mẫu sán thu thập trên dê thuộc loài Fasciola gigantica và loài trung gian lai giữa F. hepatica (con cái) x F. gigantica (con đực) cùng tồn tại trong quần thể sán lá gan lớn tồn tại ở Việt Nam.
(Trematoda), một số các gen trong hệ gen ty thể (mitochondrial gene-mtDNA) như là: coxl (cytochrome c oxidase subunit I), nadl (nicotinamide dehydrogenase subunit 1), cob (cytochrome b) và gen ITS2 (internal transcribed spacer 2) thuộc hệ gen nhân (nuclear – rDNA) đã được xác nhận là chỉ thị phân tử trong công tác giám định loài (Itagaki và cs., 1998; Huang và cs., 2004; Le và cs., 2002).
Hệ gen ty thể là một vòng kép DNA có kích thước khoảng 16-20 kbp, thường gồm 36-37 gen mã hoá cho 12-13 loại prôtêin, 2 RNAs riboxom và 22 RNAs vận chuyển. Các prôtêin được mã hoá trong hệ gen ty thể chủ yếu là các prôtêin enzyme tham gia vào các quá trình hô hấp của tế bào là quá trình không thể thiếu được trong hoạt động sống. Các gen trong ty thể có hệ số biến đổi nhanh hơn gen trong nhân tế bào 10-15 lần do vậy thuận lợi cho nghiên cứu về tiến hoá. Hệ gen ty thể có hướng di truyền theo dòng mẹ, các gen ty thể trong cùng chủng, cùng loài có tính bảo tồn sinh học cao ở một số gen như: coxl, nadl… do vậy bất cứ sự thay đổi nhỏ nào cũng là dấu hiệu giá trị trong giám định và phân loài. Bên cạnh các gen của hệ gen ty thể, gen ITS2 của hệ gen nhân cũng được khảo sát để khẳng định hơn nữa về sự di truyền cũng như biến đổi hệ gen trong quần thể sán lá gan lớn. Công tác giám định loài ở quần thể sán lá gan dùng hệ gen ty thể đã bước đầu có kết quả ở nước ta, theo một số nghiên cứu định loại đầu tiên đã cho biết loài sán lá gan lớn gây bệnh cho người và bò ở nước ta nghiêng về loài F. gigantica mặc dù vẫn có những số lượng nhỏ nucleotit ở các vị trí nhất định trên gen nadl giống như F. hepatica (Đặng Tất Thế, 2001) (Lê Thanh Hoà và Nguyễn Văn Đề, 2002) (Đặng Tất Thế và Yukifumi Nawa, 2005). Để có thêm những bằng chứng về nghiên cứu định loài sán lá gan lớn gây bệnh ở nước ta, chúng tôi tiến hành giám định phân tử dựa trên các gen coxl, nadl và ITS2 của loài Fasciola spp. trên vật chủ dê, loài gia súc ăn cỏ được chăn nuôi rộng ở các vùng cao.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích