Giám sát một số bệnh lây truyền qua đường tình dục gắn với giám sát HIV trên nhóm dân cư có hành vi nguy cơ cao tại 5 tỉnh/thành phố
Bệnh hoa liễu đã được biết đến từ rất lâu và người ta cũng biết rằng bệnh lây qua quan hệ tình dục. Ngày nay người ta gọi là nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (NTLTQĐTD hay STI). Bệnh ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe của con người và nòi giống [3]. Bệnh lây truyền qua đường tình dục làm tăng khả năng lây nhiễm HIV. Các bệnh lây truyền qua đường tình dục và nhiễm HIV có đồng yếu tố dịch tễ học. Các bệnh lây truyền qua đường tình dục làm tăng khả năng lây nhiễm HIV từ 2 đến 9 lần do các yếu tố sinh học và hành vi. Nhóm có hành vi nguy cơ cao chính là nhóm hạt nhân làm lây nhiễm HIV và các bệnh NTLTQĐTD ra cộng đồng dân cư [8,9]. Xác định được tỷ lệ hiện mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong nhóm đối tượng có hành vi nguy cơ cao có thể giúp cho việc kiểm soát bệnh tốt hơn và hạn chế khả năng lây truyền HIV cũng như các bệnh NTLTQĐTD. Vì vậy, nghiên cứu đã được tiến hành nhằm mục tiêu đánh giá tỷ lệ hiện mắc nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI) bao gồm cả HIV trên nhóm dân cư có hành vi nguy cơ cao tại 5 tỉnh/thành phố tại Việt Nam năm 2003.
II. ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng nghiên cứu
Các đối tượng nghiên cứu bao gồm những đối tượng có hành vi nguy cơ cao tại 5 tỉnh/ thành phố (Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Nang) trong năm 2003: người nghiện chích ma túy, phụ nữ hành nghề mại dâm và bệnh nhân đến khám các bệnh NTLTQĐTD.
Trong đó, nhóm bệnh nhân khám nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI) là nhóm cầu nối, có hành vi nguy cơ lây truyền bệnh cho cộng đồng qua quan hệ tình dục với nhóm mại dâm; nhóm nghiện chích ma túy là nhóm có nguy cơ cao nhất lây truyền HIV qua tiêm chích ma túy và nhóm gái mại dâm là nhóm có hành vi nguy cơ cao lây truyền STI và cả HIV chủ yếu qua đường tình dục.
2. Phương pháp nghiên cứu
1 Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm đánh giá tỷ lệ hiện mắc STI bao gồm cả HIV trên nhóm dân cư có hành vi nguy cơ cao tại 5 tỉnh/ thành phố tại Việt Nam năm 2003: Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Nang.
2. Cỡ mẫu nghiên cứu và chọn mẫu
– Cỡ mẫu nghiên cứu sẽ được tính theo công thức sau:
Trong đó: n: cỡ mẫu nghiên cứu
Z(1-a/2): Hệ số tin cậy ở mức sác xuất 95% (= 1,96)
p: tỷ lệ hiện nhiễm chung (ước lượng = 3%)
d: độ chính xác mong muốn (= 0,9%).
DE: hiệu số thiết kế nghiên cứu (= 2)
Cỡ mẫu nghiên cứu tính được là n= 2762. Lấy thêm 10% để đề phòng một số đối tượng nghiên cứu không đến tham gia. Thực tế trong nghiên cứu này tiến hành nghiên cứu được 2898 người.
Chọn mẫu: mẫu nghiên cứu được phân bổ đều cho cả 3 nhóm có hành vi nguy cơ cao (người nghiện chích ma túy, phụ nữ hành nghề mại dâm và bệnh nhân đến khám các bệnh NTLTQĐTD) ở 5 tỉnh/thành phố. Như vậy: cỡ mẫu nghiên cứu cho mỗi nhóm có hành vi nguy cơ cao tại mỗi tỉnh/thành phố là 200 đối tượng
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu đánh giá tỷ lệ hiện mắc nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI) bao gồm cả HIV trên nhóm dân cưcó hành VI nguy cơ cao tại 5 tỉnh/thành phố tại Việt Nam năm 2003. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm có hành VI nguy cơ cao có tỷ lệ hiện mắc HIV rất cao: nhóm nghiện chích ma túy là 38,7% (cao nhất ở Quảng Ninh 56,0% và TP Hồ Chí Minh 51,1%), gái mại dâm là 6,7%, bệnh nhân STI là 4,0%. Tỷ lệ hiện mắc giang mai ở nhóm gái mại dâm là cao nhất 2,9%, bệnh nhân STI và nghiện chích ma túy lần lượt là 2,2% và 1,0%. Bệnh lậu có tỷ lệ hiện mắc thấp, cao nhất nhóm bệnh nhân STI 3,5%, gái mại dâm 2,9% và nghiện chích ma túy 0,8%. Nhiễm Chlamydia có tỷ lệ nhiễm cao hơn lậu, gái mại dâm là 4,3%, bệnh nhân STI 2,1% và nghiện chích ma túy 1,3%. Kết luận: tỷ lệ hiện mắc HIV cao ở nhóm bệnh nhân đến khám STI, nghiện chích ma túy và gái mại dâm.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích