Giám sát sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh thường gặp ở Việt Nam năm 2005
Kháng sinh (KS) đã góp phần làm giảm tỷ lệ tử vong do các bệnh nhiễm khuẩn. Tuy vậy, sự gia tăng những chủng đề kháng đã trở thành nguy cơ thất bại cho điều trị trong nhiều trường hợp. Năm 2001 Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) đã xây dựng chiến lược toàn cầu ngăn chặn sự đề kháng kháng sinh [1]; ở đó TCYTTG đã động viên tất cả các quốc gia đẩy mạnh việc giám sát sự đề kháng KS làm cơ sở cho việc xây dựng chiến lược sử dụng KS hợp lý và ngăn chặn sự lan truyền vi khuẩn đề kháng.
Hoạt động “Giám sát sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh thường gặp ở Việt nam” (Antibiotic Susceptibility Test Surveillance – ASTS) được thực hiện từ thập kỷ 90 đến nay dưới sự chỉ đạo của Bộ y tế tại 8 bệnh viện (BV) – đại diện cho 3 miền Bắc, Trung, Nam là BV Bạch Mai, BV Nhi Trung Ương, BV Việt – Tiệp Hải Phòng, BV Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí Quảng Ninh, BV Trung Ương Huế, BV Đa khoa tỉnh Bình Định, BV Chợ Rẫy thành phố Hồ Chí Minh và BV Đa khoa tỉnh Đồng Tháp. Mục tiêu:
Mô tả hàng năm tỷ lệ đề kháng kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh thường gặp; khuyến nghị về sử dụng kháng sinh hợp lý.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng
Đối tượng là các vi khuẩn (VK) gây bệnh được phân lập và xác định từ các bệnh phẩm máu, mủ, nước tiểu, phân, đờm, dịch não tuỷ, dịch họng và các dịch cơ thể khác do các khoa lâm sàng của các BV gửi tới labo Vi sinh.
2. Phương pháp: Quy trình phân lập, xác
định vi khuẩn gây bệnh và kháng sinh đồ (kỹ thuật khoanh giấy khuếch tán) theo thường quy của TCYTTG [2] và CLSI (clinical and laboratory standards institute) [3].
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích