Hành vi sử dụng nhà vệ sinh của học sinh phổ thông
Sử dụng nhà vệ sinh là một trong những biện pháp nhằm giảm thiểu các nguy cơ bệnh tật và tử vong cho trẻ em do hạn chế hành vi đại tiện bừa bãi [5]. Tại trường học, nhà vệ sinh đóng vai trò quan trọng trong việc giảng dạy các bài thực hành cho học sinh về hành vi vệ sinh, giúp cho môi trường học thuận lợi, tỷ lệ học sinh đến trường nhiều hơn, đảm bảo công bằng về giới và giúp cho học sinh có những kỹ năng sống có lợi cho tương lai [6]. Rèn luyện hành vi sử dụng nhà vệ sinh cho học sinh cũng góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức các vấn đề về vệ sinh cho các em và góp phần thực hiện điều 24 v ề công ước Quyền trẻ em, đảm bảo tất cả trẻ em được tiếp cận với nước sạch, vệ sinh môi trường và hành vi vệ sinh.
Tuy nhiên, hành vi sử dụng nhà vệ sinh của học sinh tại Việt Nam hiện còn hạn chế. Theo kết quả điều tra toàn quốc năm 2006, 77,4% trường phổ thông có nhà vệ sinh nhưng chỉ có 11,7% đạt tiêu chuẩn vệ sinh của Bộ Y tế, 5% nhà vệ sinh không sử dụng được. 21,3% số trường học có học sinh đi đại tiện ở rừng, vườn, nương, biển, suối và sông [3]. Tỷ lệ này còn cao hơn ở các vùng sâu, vùng xa như miền núi phía Bắc và Tây Nguyên.
Cho đến nay có rất ít nghiên cứu về hành vi sử dụng nhà vệ sinh của học sinh tại các xã miền núi, nơi mà tiếp cận tới nhà vệ sinh còn hạn chế. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm trả lời câu hỏi: Học sinh có sử dụng nhà vệ sinh tại trường và tại nhà không? Có gì khác biệt theo giới? Giữa các dân tộc? Theo các lớp học? nhằm Mục tiêu: Phân tích hành vi sử dụng nhà vệ sinh của học sinh phổ thông tại hai xã miền núi tỉnh Lào Cai năm 2008
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả định lượng (phỏng vấn trực tiếp)
2. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu này do dự án SANIVAT tài trợ, được tiến hành tại hai xã miền núi được nhận hỗ trợ của chương trình nước sạch, vệ sinh môi trường giai đoạn 2 (xã Tả Phời và xã Hợp thành, thành phố Lào Cai). Nghiên cứu trường học được tiến hành tại tất cả 4 trường tiểu học và trung học cơ sở và 2 điểm trường (đại diện cho vùng thấp và vùng cao) tại hai xã. Các số liệu được thu thập tại trường học từ tháng 9 đến tháng 10 năm 2008.
3. Đối tượng
Học sinh đang học lớp 2, lớp 3, lớp 5, lớp 6, lớp 8 và lớp 9 tại các trường học nghiên cứu
4. Cỡ mẫu và chọn mẫu
Tất cả học sinh lớp 2, lớp 3, lớp 5, lớp 6, lớp 8 và lớp 9 hiện đang theo học tại 6 trường nghiên cứu đều được lựa chọn tham gia vào phỏng vấn theo từng lớp bởi nhóm nghiên cứu. Tổng cộng đã phỏng vấn 707 học sinh theo bộ câu hỏi cấu trúc có sẵn.
5. Kỹ thuật và công cụ thu thập thông tin
Phỏng vấn 707 học sinh lớp 2, lớp 3, lớp 5, lớp 6, lớp 8 và lớp 9 theo bộ câu hỏi cấu trúc có sẵn. Hai câu hỏi chính có liên quan đến sử dụng nhà v ệ sinh là “Hôm qua em đi tiểu (đái) ở đâu?” và “Hôm qua em đi đại tiện (ỉa) ở đâu?”. Bộ câu hỏi được phát cho các em tự điền. Điều tra viên hỏi theo từng lớp theo cách để các em tự điền sau mỗi câu hỏi và không gợi ý câu trả lời.
6. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Số liệu định lượng sử dụng trong bài báo này được phân tích và xử lý theo chương trình STATA version 10.0. Sử dụng test Khi bình phương (c2) để kiểm định sự khác biệt về tỷ lệ phần trăm giữa các nhóm.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc trưng của đối tượng nghiên cứu
Tổng cộng nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn 707 học sinh với các đặc trưng được trình bày trong bảng 1.
Kết quả ở bảng trên cho thấy số học sinh tham gia vào nghiên cứu là tương đương theo giới, chủ yếu là dân tộc Tày (51,8%) và dân tộc Dáy (31,4%). Chỉ có 47,5% các em tham gia trả lời gia đình có nhà vệ sinh. Hơn một nửa các em trả lời gia đình có tivi, có xe đạp và xe máy. Chỉ có 23,9% hộ gia đình có đài.
2. Hành vi sử dụng nhà vệ sinh của vệ sinh
Bảng 2: Trả lời cho câu hỏi “Hôm qua em đi tiểu ở đâu?”, kết quả ở bảng 2 cho thấy học sinh trả lời sử dụng nhà vệ sinh trường học là nhiều nhất (50%), rồi đến nhà vệ sinh của gia đình (41%) và đi lung tung (33%). Theo giới, học sinh nữ đi tiểu tại nhà vệ sinh gia đình nhiều hơn và đi lung tung ít hơn so với học sinh nam (p < 0,05). Theo dân tộc, học sinh người dân tộc Kinh – Tày sử dụng nhà vệ sinh của gia đình để đi tiểu (49%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với học sinh người dân tộc Xa phó – Dao (33%) và dân tộc Dáy (29%). Kết quả ở bảng 2 cũng cho thấy càng lên lớp cao học sinh càng sử dụng nhà vệ sinh ở nhà và ở trường để đi tiểu nhiều hơn, ít đi lung tung hơn so với học sinh lớp bé hơn. Tuy nhiên 64% học sinh tiểu học trả lời có sử dụng nhà vệ sinh trường học để đi tiểu trong ngày hôm qua, cao hơn hẳn so với học sinh trung học cơ sở chỉ có 39%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Phân tích hành vi sử dụng nhà vệ sinh của học sinh phổ thông tiểu học và trung học cơ sở. Đối tượng và phương pháp: phỏng vấn nhóm theo bộ câu hỏi tự điền của 707 học sinh tiểu học (lớp 2, lớp 3, lớp 5) và trung học cơ sở (lớp 6, lớp 8 và lớp 9) tại hai xã miền núi tỉnh lào cai về đi tiểu và đại tiện trong ngày hôm qua. Kết quả: Tỷ lệ học sinh trả lời sử dụng nhà vệ sinh nhiều hơn là đi tiểu tiện hay đại tiện lung tung. Tỷ lệ học sinh sử dụng nhà vệ sinh trường học để đi tiểu tiện và đại tiện là 50% và 32%. Tỷ lệ này đối với nhà vệ sinh gia đình là 41% và 47%. Tỷ lệ học sinh đi tiểu và đại tiện lung tung là 33% và 30%. Trong số các em trả lời có nhà vệ sinh gia đình, chỉ có 76% và 88% các em sử dụng nhà vệ sinh này để đi tiểu tiện và đại tiện trong ngày hôm qua. Kết luận: Hành vi sử dụng nhà vệ sinh của học sinh phổ thông ở vùng nghiên cứu còn hạn chế. Mức độ sử dụng nhà vệ sinh của học sinh tăng dần theo độ tuổi và khác biệt giữa các dân tộc.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích