HCV – RNA và kiểu gen virus viêm gan C (hcv) ở bệnh nhân chạy thận nhân tạo (tnt) tại bệnh viện Bạch Mai
Bệnh nhân chạy thận nhân tạo (TNT) và truyền máu nhiều lần là đối tượng nguy cơ bị nhiễm virus viêm gan C (HCV) rất cao chiếm tỷ lệ từ 5 – 94% tùy theo từng vùng và khu vực [2]. Tỷ lệ nhiễm HCV ở nhóm bệnh nhân này tăng dần theo thời gian, theo số lần lọc máu [3, 7]. Bệnh nhân suy thận ngay khi bắt chạy thận nhân tạo đã là một quần thể có nguy cơ cao nhiễm HCV do phải điều trị bảo tồn dài ngày, truyền máu, tiêm truyền nhiều lần, việc thực hiện thủ thuật can thiệp tạo thông động tĩnh mạch để thiết lập vòng tuần hoàn ngoài cơ thể, lây truyền chéo trong bệnh viện… [6]. Ở Việt Nam việc đánh giá tình trạng nhiễm HCV trên bệnh nhân chạy thận nhân tạo chủ yếu vẫn dựa vào xét nghiệm phát hiện anti – HCV, tuy nhiên các con số đưa ra từ xét nghiệm này không phân biệt được tình trạng nhiễm virus thật sự hay nhiễm trong quá khứ vì xét nghiệm này mới chỉ phát hiện kháng thể kháng HCV. Trên thực tế HCV – RNA chỉ phát hiện được khoảng 52 – 95% bệnh nhân chạy thận nhân tạo có anti HCV (+) [3, 7]. Mặt khác đặc tính quan trọng nhất về cấu trúc hệ gen của HCV là tính đa dạng về gen và điều này làm cho virus có khả năng né tránh ñáp ứng miễn dich của vật chủ và làm cho cơ thể không có miễn dịch bảo vệ và vẫn có nguy cơ bị tái nhiễm [4]. Việc xác ñịnh kiểu gen của HCV giúp ích rất nhiều cho vấn đề điều trị, ñặc biệt ñối với bệnh nhân chạy thận nhân tạo có nguy cơ cao nhiễm nhiều loại kiểu gen của virus viêm gan C. Vì vậy chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “HCV– RNA và kiểu gen virus viêm gan C (HCV) ở bệnh nhân chạy thận nhân tạo tại bệnh viện Bạch Mai” với mục tiêu sau: 1. Xác định tỷ lệ HCV – RNA ở bệnh nhân chạy TNT chu kỳ có anti – HCV (+). 2. Mô tả kiểu gen của virus viêm gan C ở bệnh nhân chạy TNT có HCV – RNA(+).
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
70 bệnh nhân chạy thận nhân tạo chu kỳ 3 lần/1 tuần tại bệnh viện Bạch Mai có anti – HCV (+) (sử dụng kỹ thuật ELISA thế hệ 3 với bộ sinh phẩm MONOLISA plus HCV của Bio – Rad), những bệnh nhân này được lấy máu làm xét nghiệm trước khi lọc máu tại thời điểm tiến hành nghiên cứu. Các mẫu máu được để đông tự nhiên và ly tâm lấy huyết thanh. Các mẫu huyết thanh của bệnh nhân được lưu giữ trong tủ âm sâu ở nhiệt độ – 700C cho ñến khi thực hiện xét nghiệm đo tải lượng virus (viral load – ước lượng số virus có trong máu), kiểu gen của HCV. Một số thông tin liên quan: giới, tuổi, thời gian lọc máu cũng ñược tiến hành nghiên cứu.
2. Phương pháp
– Điều tra ngang: xác ñịnh HCV – RNA và xác định kiểu gen HCV trên ñối tượng nghiên cứu bằng kỹ thuật Real – time RT – PCR.
– Những bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu có tải lượng virus ≥ 102 copies/ml ñược xác ñịnh kiểu gen HCV.
3. Các kỹ thuật trong nghiên cứu
– HCV – RNA được phát hiện bằng kỹ thuật Real – time RT – PCR ñịnh lượng HCV – RNA: Sử dụng bộ sinh phẩm COBAS® AmpliPrep/ COBAS® TaqMan® HCV Test (Roche) và thực hiện trên hệ thống máy AmpliPrep/COBAS TaqMan 48 (Roche). Ngưỡng phát hiện của bộ sinh phẩm là 37 copies/ml.
– Kiểu gen HCV ñược xác ñịnh bằng kỹ thuật Real – time RT – PCR sử dụng trình tự mồi đặc hiệu từ NCBI được kiểm tra bằng phần mềm quy chuẩn Annhyb, Clustaex, Oligo Analyzer (IDT). Kỹ thuật xét nghiệm ñược thực hiện trên máy CFX96TM Real – time PCR Systems (Bio – Rad). Trình tự mồi và probe được thiết kế theo trình tự tại vùng 5’ không phiên mã và vùng “lõi” (core) của HCV đặc hiệu type. (Tại Việt Nam chủ yếu nhiễm các kiểu gen 1, 2, 6 do đó chúng tôi thiết kế mồi để phát hiện 3 kiểu gen này). Những trường hợp không phát hiện được kiểu gen sẽ sử dụng kỹ thuật giải trình tự.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích